Chương 43 nghìn lẻ một đêm - chuyện người đánh cá

1. Bác đánh cá và gã hung thần
Ngày xưa có một lão đánh cá khá cao tuổi và nghèo túng đến nỗi không sao kiếm được đủ bữa để nuôi sống gia đình gồm một vợ và ba con. Ngày nào, lão cũng đi đánh cá từ sáng sớm, và tự đặt ra cái lệ là mỗi ngày chỉ buông lưới bốn lần.


Một buổi sáng, lão ra đi từ lúc còn ánh trăng. Đến bờ biển, lão cởi áo quần và buông lưới. Khi kéo lưới vào bờ, lúc đầu lão cảm thấy nặng tay. Những tưởng đánh được một mẻ khá, lão đã khấp khởi mừng thầm, nhưng một lát sau nhận ra không phải cá mà là một bộ xương lừa nằm trong lưới, lão rất đỗi buồn rầu.


Vá lại xong tấm lưới bị bộ xương lừa làm rách nhiều chỗ, lão đánh cá, ngán ngẩm vì một mẻ đánh rủi ro như vậy, buông lưới lần thứ hai. Kéo thấy nặng tay hơn lần trước, lão chắc mẩm lần này lưới sẽ đầy những cá nhưng cũng lại chỉ thấy một cái thúng lớn đầy đá cuội và bùn. Vô cùng ngao ngán, lão đánh cá kêu lên, giọng đáng thương:“Hỡi số phận, xin thôi đừng giận lão, đừng hành hạ một con người đau khổ đang cầu khẩn mi buông tha! Lão từ nhà đến đây kiếm cá để sống, còn mi thì lại báo cái ch.ết của lão! Lão chẳng có nghề ngỗng gì ngoài cái nghề này nhằm kiếm ăn qua bữa; và mặc dù chăm chút biết bao nhiêu đến nghề nghiệp của mình, lão vẫn không làm sao chu cấp đủ cho gia đình những nhu cầu cần thiết nhất. Nhưng mà lão đã nhầm khi kêu van mi; mi vốn thích làʍ ȶìиɦ làm tội những con người trung hậu, mi thích để các vĩ nhân sống trong tối tăm; trong lúc mi ưu đãi những kẻ ác, mi nâng cao những đứa không hề có chút đức hạnh nào đáng cho người ta tin cậy.”


Җứt lời than vãn, lão hất tung cái thúng, và sau khi rửa sạch tấm lưới bám đầy bùn, lão buông lưới lần thứ ba, nhưng lão chỉ kéo lên được đá, vỏ sò và rác rưởi. Không thể nào tả được sự thất vọng của lão; suýt nữa lão trở thành quẫn trí. Tuy vậy, vì trời bắt đầu sáng, lão không quên đọc kinh như một người Hồi giáo ngoan đạo, và khấn thêm:“Hỡi thượng đế. Người biết rằng mỗi ngày con chỉ buông lưới có bốn lần mà thôi. Con đã ba lần tung lưới mà không thu được một chút kết quả nào. Con chỉ còn một lần nữa thôi; cầu xin Thượng đế làm cho biển cả thuận lợi cho con, như xưa kia Người đã khiến biển thuận lợi cho Môidơ vậy.”


Cầu nguyện xong, lão đánh cá buông lưới lần thứ tư. Khi cho rằng chắc cá đã vào, lão kéo cái lưới lên cũng khá vất vả như những lần trước. Tuy vẫn không được gì, nhưng lão nhặt được một cái lọ bằng đồng thau, mà quá sức nặng của nó, hình như chứa đầy một thứ gì. Cái lọ nút kín và niêm phong bằng chì có mang dấu một cái ấn. Điều đó làm lão vui lên. Lão tự nhủ:“Ta sẽ mang bán cho thợ đúc, được tiền ta sẽ mua một đấu lúa mì.”


Lão xem xét cái lọ đủ mọi phía, lão lắc lắc để xem thử những thứ gì đựng bên trong có phát ra tiếng động hay không! Chẳng nghe thấy gì, lại thêm cái dấu ấn trên nắp chì, làm cho lão nghĩ rằng chắc hẳn cái lọ chứa đựng một vật gì quý báu lắm. Lão vớ lấy con dao, và chỉ cố bẩy một tí thôi, lão đã mở được cái nắp. Lão dốc ngược cái lọ song chẳng có gì rơi ra, điều đó làm cho lão hết sức ngạc nhiên. Lão đặt cái lọ xuống trước mặt, và trong khi lão đang chăm chú ngắm nghía, thì từ miệng lọ tuôn ra một luồng khói khá dày, buộc lão phải thụt lùi về sau vài ba bước.




Luồng khói, ấy bốc cao lên lận mây xanh, trải dài ra mặt nước và ven bờ biển, tạo thành một đám sương mù lớn. Cảnh tượng đó làm cho lão cực kỳ kinh ngạc. Khi khói tuôn hết ra khỏi lọ thì tụ tập lại và trở thành một vật thể rắn, từ đó hình thành một vị thần cao lớn gấp đôi con người khổng lồ cao lớn nhất. Trước sự việc quái đản như vậy, lão muốn co giò chạy; nhưng vì quá luống cuống và khiếp đảm, lão không sao nhấc nổi chân lên.


Thoạt tiên, vị thần thốt lên:“Xalômông, hỡi Xalômông, đấng tiên tri vĩ đại của Thượng đế, xin tha thứ, xin tha thứ, không bao giờ con còn dám chống lại ý muốn của Người. Con xin phục tùng tất cả mệnh lệnh của Người.”


Nghe được mấy lời ông thần vừa nói, lão liền bình tĩnh lại và nói:“Này vị thần linh cao lớn kia ơi, ngài nói gì vậy? Xalômông, đấng tiên tri của thượng đế, qua đời đã hơn một nghìn tám trăm năm nay, và chúng ta hiện đang sống thời tận cùng các thế kỷ. Ngài hãy kể cho tôi nghe chuyện về ngài, nguyên do vì đâu ngài bị nhốt trong chiếc lọ này?”


Nghe hỏi, vị thần nhìn lão một cách kiêu ngạo và trả lời:“Mày hãy nói với ta cho có lễ độ hơn, mày to gan quá đấy, sao dám gọi ta là thần linh cao lớn?”
Lão cãi:
– Phải chăng tôi nói với ngài có lễ độ hơn, nếu tôi gọi ngài là con cú gặp may?


– Tao bảo mày phải ăn nói cho có lễ độ hơn trước khi tao giết.
– Ô hay! sao ngài lại giết tôi?– lão vặn lại– Tôi vừa giải thoát cho ngài, ngài đã quên rồi ư?
– Không, ta nhớ, nhưng điều đó cũng không ngăn trở việc ta giết mày. Ta chỉ có mỗi một ân huệ ban cho mày mà thôi.


– Ân huệ gì vậy?– lão hỏi.
– Ấy là cho phép mày được chọn lấy cách mày muốn ch.ết như thế nào.
– Nhưng tôi đã làm điều gì xúc phạm đến ngài nào?– Lão nói– Thế ra ngài thưởng công cho cái việc tốt lành tôi giúp ngài bằng cách ấy phải không?


– Ta không thể đối xử với mày bằng cách nào khác được– vị thần nói– Mày muốn tin chắc thì hãy nghe câu chuyện ta kể đây:


“Ta vốn là một trong những thần linh nổi loạn chống lại quyền uy của Thượng đế. Tất cả các thần linh khác đều thừa nhận Xalômông vĩ đại, đấng tiên tri của Thượng đế, và đều thuần phục Người, chỉ có Xaca và ta là những kẻ duy nhất không chịu làm điều hèn hạ đó. Để trả thù, nhà vua hùng mạnh ấy sai Átxáp, con của Barakhia, tể tướng của Người, đến bắt ta. Lệnh đó được thực hiện. Átxáp đến bắt ta, cưỡng bách ta đến trước ngai vàng chúa tể của ông ta. Xalômông con của Đavít; ra lệnh cho ta phải từ bỏ lối sống của mình, phải thừa nhận quyền lực của Người, và phục tùng mệnh lệnh của Người. Ta ngạo nghễ từ chối không tuân theo. Ta thà chịu đựng mọi sự thù ghét của Người còn hơn là thề trung thành và thần phục như Người buộc ta phải làm. Để trừng phạt ta, Người giam ta vào trong cái lọ đồng này; và để cho ta không thể nào vượt ngục, Người tự tay đóng lên cái nắp bằng chì con ấn của Người có khắc tên Thượng đế. Xong đâu đấy, Người giao cái lọ cho một trong những thần linh chịu thần phục và truyền cho hắn ném ta xuống biển; lệnh ấy đã được thi hành, mặc dù ta chẳng muốn chút nào. Trong thế kỷ tù đày đầu tiên, ta thề nếu có ai đến giải thoát cho ta trước khi hết hạn một trăm năm, ta sẽ làm cho người đó trở nên giàu có, cho dù ngay cả sau khi đã qua đời. Nhưng một thế kỷ trôi qua, mà chẳng có ai làm giúp ta việc tốt lành ấy cả. Trong thế kỷ thứ hai, ta thề sẽ mở cửa tất cả các kho tàng trên trái đất cho bất kỳ kẻ nào đem lại tự do cho ta, nhưng ta vẫn không được may mắn gì hơn. Trong thế kỷ thứ ba, ta hứa là sẽ làm cho người giải thoát ta trở thành một ông vua hùng mạnh, hồn thiêng của ta sẽ luôn luôn ở bên cạnh người đó, và cứ mỗi ngày thỏa mãn cho người đó ba điều ước, cho dù tính chất của những điều ước ấy như thế nào; nhưng thế kỷ này lại trôi qua như hai thế kỷ trước, mà ta thì vẫn cứ lâm vào tình trạng như xưa. Cuối cùng, chán ngán, hay đúng hơn là điên tiết vì thấy mình bị giam cầm quá lâu, ta thề nếu từ đây ai giải thoát ta, ta sẽ giết ch.ết không chút xót thương và sẽ không ban cho một ơn huệ nào ngoài việc cho phép tự chọn lấy cách ch.ết. Chính vì vậy mà ta cho phép mày tự chọn xem mày muốn được ta giết ch.ết bằng cách nào.”


Những lời nói ấy làm lão rất lo âu.


– Khốn nạn thân tôi,– lão kêu lên– sao lại đến chốn này làm ơn cho một kẻ bội bạc! Xin ngài hãy thương xót, hãy nhận ra sự bất công của ngài, và hãy xóa bỏ lời thề quá ư vô lý. Hãy tha tội cho lão, Thượng đế sẽ đại xá cho ngài; nếu ngài rộng lượng cho lão được sống, thì Thượng đế sẽ che chở ngài chống mọi mưu toan ám hại.


– Không!– thần nói– mày nhất định phải ch.ết, mày thích ch.ết cách nào thì hãy chọn đi, để tao kết liễu đời mày.


Thấy thần khăng khăng muốn giết mình, lão đau đớn vô cùng, tiếc thân mình thì ít mà thương ba dứa con sẽ lâm vào cảnh khốn cùng sau khi mất bố thì nhiều. Lão lại cố gắng làm cho vị thần bớt giận:“Ngài ôi! xin ngài hay nghĩ đến việc tôi đã làm cho ngài mà đoái thương tôi.”


– Thì ta đã bảo, chính vì việc làm của mày mà ta bắt buộc phải kết liễu đời mày mà.


– Thật lạ lùng làm sao,– lão đáp,– ai lại cứ khăng khăng lấy oán báo ân. Tục ngữ có câu: người nào làm điều lành cho kẻ không đáng hưởng thì bao giờ cũng bị đền đáp không hay. Thú thật, trước đây tôi cho rằng câu tục ngữ đó sai: không có gì xúc phạm lẽ phải và luật lệ xã hội hơn là câu nói đó. Thế nhưng giờ đây, tôi đau đớn mà nhận ra rằng nó quá ư đúng đắn.


Thần ngắt lời:
– Đừng để mất thời giờ, mọi lý lẽ đều không làm thay đổi được chủ định của ta đâu. Hãy nói nhanh lên, mày muốn được ta giết ch.ết bằng cách nào?


Sự bức bách làm nảy trí thông minh. Lão nghĩ ra một mẹo. Lão nói với thần:“Vì không có cách nào tránh khỏi ch.ết, thôi thì tôi đành phục tùng ý trời vậy. Nhưng trước khi chọn cách ch.ết, tôi cầu xin ngài, hãy vì uy danh vĩ đại của Thượng đế đã được khắc vào con ấn của đấng tiên tri Xalômông, con trai Đavít, mà trả lời thật thà cho tôi biết câu tôi hỏi ngài sau đây.”


Thấy mình lâm vào cái thế không thể nào khước từ lời cầu xin ấy được, hung thần run sợ trong lòng. Hắn bảo lão:“Nào, mày muốn hỏi gì ta thì hỏi nhanh lên!”


Được thần hứa là sẽ nói sự thật, lão liền hỏi:“Tôi muốn biết có thật đúng là ngài đã ở trong cái lọ này không? Ngài có dám thề trước Thượng đế rằng quả đúng là như vậy?”
– Đúng, ta xin thề trước Thượng đế rằng ta đã ở trong cái lọ. Điều đó hoàn toàn không sai.


– Thật thà mà nói, tôi không sao tin được lời ngài. Cái lọ này một bàn chân của ngài thôi cũng không đút lọt, làm sao có thể chứa đựng toàn bộ thân thể ngài cơ chứ!


– Nhưng ta đã thề độc với mày, đúng là với cái hình dạng như mày đang thấy ta đây, ta đã ở trong ấy. Như vậy, mày vẫn không tin ư?
– Vâng, đúng thế,– lão nói– tôi sẽ chẳng bao giờ tin trừ khi ngài cho tôi trông thấy tận mắt.


Thế là thân thể hung thần tự nhiên tan ra, biến thành khói trải dài trên mặt nước và ven bờ biển rồi sau đó tụ tập lại và chui trở vào trong lọ một cách chậm rãi và đều đều cho đến khi không còn gì sót lại ở bên ngoài.


Từ trong lọ vọng ra một tiếng nói:“Hỡi lão đánh cá hay hoài nghi kia, giờ ta đã vào trong lọ, mày tin rồi chứ?”


Không trả lời, lão đánh cá vớ lấy cái nắp chụp nhanh lên miệng lọ rồi kêu to:“Này hung thần, giờ đến lượt mày van ta, và cho mày lựa chọn lấy, mày muốn ta cho mày ch.ết bằng cách nào? Nhưng mà thôi, tốt hơn là ta lại ném mày xuống biển ngay ở chỗ ta vớt mày lên: rồi ta sẽ làm một cái nhà trên bờ này, ta sẽ ở đây để báo cho tất cả những người đánh cá nào đến đây buông lưới, rằng hãy chú ý đừng có vớt lên một hung thần độc ác như mày, kẻ đã thề sẽ giết ch.ết người nào cứu vớt nó trở lại tự do.”


Nghe những lời xúc phạm đó, hung thần nổi xung, cố hết sức để thoát ra ngoài lọ, nhưng không sao được vì bị cái dấu ấn của đấng tiên tri Xalômông, con vua Đavít, cản lại.


Thấy lão đánh cá có lợi thế hơn mình, hắn buộc lòng phải giấu sự giận dữ. Hắn dịu giọng nói:“Hỡi người ngư phủ, bác hãy cẩn thận, chớ có làm điều bác vừa nói đấy nhé. Những việc ta làm vừa rồi chẳng qua là để đùa chơi một tí thôi, bác chớ có nên coi là chuyện thật.”


– Này hung thần,– bác đáp,– cách đây một lát là đấng vĩ đại nhất, nhưng bây giờ là kẻ bé nhỏ nhất trong tất cả các thần linh, mày hãy biết rằng những lời lẽ giả dối của mày chẳng giúp ích gì cho mày đâu. Mày sẽ trở về với biển cả. Nếu mày đã từng ở dưới biển suốt thời gian như mày đã kể cho ta nghe thì mày cũng có thể ở đấy cho đến ngày phán xét. Ta đã nhân danh Thượng đế cầu xin mày chớ kết liễu đời ta, mày đã bác bỏ mọi lời cầu khẩn của ta thì giờ đây, đến lượt ta đối xử với mày như mày đã đối xử với ta vậy.


Hung thần tìm đủ mọi cách làm động lòng lão đánh cá“Bác hãy mở cái nắp lọ, hãy trả lại tự do cho ta. Ta van bác đấy, ta xin hứa rằng ta sẽ làm hết sức mình cho bác bằng lòng về ta.”


– Mày chỉ là một tên phản trắc,– lão trả lời– Ta sẽ đáng ch.ết, nếu ta còn bất cẩn mà tin ở mày. Rồi mày cũng đến giết ta như một ông vua Hy Lạp nào đó đã giết viên thầy thuốc Đubăng mà thôi. Nếu vừa rồi ta lay chuyển được mày, nếu mày ưng thuận cho điều ta cầu xin, thì giờ đây có lẽ ta sẽ thương hại cho tình cảnh của mày. Nhưng, bởi vì bất chấp cái ơn cực kỳ cao cả là được ta giải thoát cho, mày vẫn một mực đòi giết ta, vậy thì đến lượt ta, ta cũng phải không thương xót. Ta sẽ cứ để cho mày bị nhốt trong lọ này và ném mày xuống biển, để cho mày không được sống đến ngày tận thế: đó là sự trả thù mà ta định đối xử với mày đấy.


– Hỡi người ngư phủ bạn của ta ơi,– hung thần đáp,– một lần nữa ta van bác chớ nên có một hành động tàn ác như vậy. Bác nên nghĩ rằng trả thù ta không đôn hậu, ngược lại lấy ân báo oán mới thật là đáng khen.


– Không, ta sẽ không giải thoát mày đâu. Lý lẽ quá nhiều rồi: ta sắp tống mày xuống đáy biển đây.– lão nói.


– Bác đánh cá ơi,– hung thần kêu lên,– gượm, cho ta nói thêm một lời: ta hứa sẽ không làm gì hại đến bác: hơn nữa, khác xa điều đó, ta sẽ còn bày cho bác một cách để mà trở nên cực kỳ giàu có nữa.
Niềm hy vọng có thể thoát khỏi cảnh nghèo túng làm lão xiêu xiêu. Lão nói:


– Ta có thể nghe, thử xem lời mày nói có lọt tai ta không. Hãy thề trước Thượng đế rằng mày sẽ giữ lấy lời thì ta sẽ mở cái lọ cho mày ra: ta không tin rằng mày cả gan đến nỗi dám vi phạm một lời nguyền như vậy.


Hung thần chịu thề, người đánh cá liền mở nắp lọ. Lập tức khói tuôn ra, và hung thần, sau khi đã lấy lại nguyên hình vẫn theo như cách thức trước, việc đầu tiên là đưa chân đá tung cái lọ xuống biển. Hành động đó làm lão đánh cá phát hoảng:“Này thần linh, thế là thế nào? ngài không muốn giữ trọn lời thề lúc nãy hay sao? Tôi có cần nhắc lại câu mà thầy thuốc Đu Băng từng nói với nhà vua Hy Lạp xưa:“Hãy để cho tôi sống, Thượng đế sẽ kéo dài tuổi thọ của ngài”?


Sự hoảng hốt của lão đánh cá làm hung thần bật cười:“Không, lão ạ, lão hãy yên tâm, ta hất cái lọ đi cho vui và để xem lão có hoảng lên không thôi. Để lão tin chắc là ta muốn giữ trọn lời hứa, lão hãy vác lưới đi theo ta.”


Hung thần vừa nói vừa đi lên phía trước, lão đánh cá vác lưới theo sau mà lòng vẫn nửa tin nửa ngờ. Họ đi ngang qua trước thành phố, trèo lên một ngọn núi rồi từ đấy đổ xuống một đồng bằng rộng dẫn tới một cái đầm lớn nằm giữa bốn quả đồi.


Đến bờ đầm, hung thần bảo lão:“Lão hãy buông lưới đi, rồi bắt lấy cá”. Người ngư phủ tin chắc mình sẽ đánh được cá bởi vì mắt nhìn thấy vô số cá trong đầm; song điều làm cho lão cực kỳ kinh ngạc là các con cá có bốn màu sắc khác nhau: trắng, đỏ, xanh, vàng. Lão tung lưới và bắt lên bốn con, mỗi con một màu. Chưa hề nhìn thấy những con cá như vậy bao giờ, lão ngắm nghía không biết chán; và cho rằng có thể bán được món tiền đáng kể, lão rất đỗi vui mừng. Hung thần nói:“Hãy mang những con cá này đến dâng hoàng đế, ngài sẽ cho lão nhiều tiền hơn số lão đã kiếm được suốt đời. Ngày nào, lão cũng có thể đến đánh cá ở đây, song ta báo cho biết trước, là mỗi ngày chỉ được buông lưới một lần thôi, làm khác đi là mang họa vào thân đấy; lão cần nhớ kỹ! Đấy là lời ta khuyên; nếu thực hiện đúng thì lão sẽ thấy nó nhiệm màu”. Nói xong câu đó, thần dậm chân, mặt đất liền nứt ra và đóng lại ngay sau khi nuốt chửng thần.


Lão quyết tâm thực hiện đúng mọi điều khuyên răn của hung thần, chú ý không buông lưới lần nữa. Lão quay trở lại kinh thành, khá bằng lòng với mẻ cá và suy nghĩ miên man về những việc vừa xảy ra cho mình. Lão đi thẳng đến hoàng cung để dâng cá lên hoàng đế…






Truyện liên quan