Chương 0078 : Trận quyết đấu đáng sợ

Tôn Lão Tiên Sinh đáp: “Bởi vì trong đó không chỉ có tâm pháp võ công, mà còn ghi những thuật hạ độc, thuật cải trang, thuật phóng trùng của người Miêu, thuật nhiếp tâm của Ba Tư... mà ông ấy đã từng học.”


Lão buồn bã nói tiếp: “Một cuốn sách như thế, nếu lọt vào tay kẻ ác thì hậu quả chắc chắn không thể lường được.”
Lý Tầm Hoan cũng than thở: “Đúng là hậu hoạn vô cùng.”


Tôn Lão Tiên Sinh nói: “Nhưng đây là tâm huyết cả cuộc đời, ông ấy cũng không nỡ hủy hoại trong chốc lát, nên đã từ hải ngoại trở về, giao sách cho một người mà ông ấy coi là có thể phó thác được.”


Đến đây, Lý Tầm Hoan đã hiểu được phần lớn chuyện này, biết cuốn võ công bí quyết đang giấu trong Hưng Vân Trang chính là Lân Hoa Bảo Giám.


Nhưng vẫn có vài việc chàng chưa nghĩ ra, nên hỏi tiếp: “Ông ấy muốn giao quyển bí quyết này cho ai?”
Tôn Lão Tiên Sinh đáp: “Giao cho Thám Hoa.”
Lý Tầm Hoan ngẩn người ra hỏi: “Tại hạ ư?”


Tôn Lão Tiên Sinh mỉm cười: “Trong khắp thiên hạ, ngoài Tiểu Lý Thám Hoa ra còn ai đáng tin cậy nữa?”




Lão nói tiếp: “Ông ấy đem Lân Hoa Bảo Giám trao cho Thám Hoa, không những muốn Thám Hoa giữ giúp, mà còn muốn tìm giúp ông ấy một đệ tử có thiên bẩm và lương tâm để thừa kế y bát.”


Lý Tầm Hoan cười đau khổ: “Việc này chính tại hạ lại hoàn toàn không biết chút nào.”
Tôn Lão Tiên Sinh đáp: “Chỉ vì lúc đó ngươi đã rời nhà.”


Lý Tầm Hoan suy nghĩ rồi nói: “Mười ba năm trước... Không sai, lúc đó tại hạ vừa ra quan ải, lúc về thì bị mai phục trọng thương, nếu không nhờ Long Tiêu Vân ra tay trượng nghĩa thì...”


Nói đến đây, cổ chàng như nghẹn lại, không thể nói tiếp.
Đây chính là việc khó quên nhất trong cuộc đời chàng. Chính vì việc này, đời chàng mới thay đổi hoàn toàn, từ hạnh phúc biến thành bất hạnh.


Tôn Lão Tiên Sinh nói: “Vương Lân Hoa không gặp Thám Hoa, chỉ gặp Lâm cô nương. Lúc đó ông ấy đang chuẩn bị đi xa, Thẩm đại hiệp đã đợi ngoài cảng, ông ấy không thể nán lại lâu nên mới giao Lân Hoa Bảo Giám cho Lâm cô nương.”


Quan hệ nam nữ, trên đời ít ai hiểu rõ hơn Vương Lân Hoa. Ông ấy đã thấy tình cảm giữa Lâm Thi Âm và Lý Tầm Hoan không phải tầm thường.
Nhưng sao Lâm Thi Âm chưa từng kể chuyện này với Lý Tầm Hoan?


Lý Tầm Hoan ngần ngừ một chút rồi hỏi: “Không biết tiền bối đã nghe chuyện này từ đâu? Có chắc chắn không?”
Tôn Lão Tiên Sinh đáp: “Tuyệt đối đáng tin.”


Tôn Tiểu Hồng nhịn không nổi, nói xen vào: “Chuyện này là chính Nhị Thúc của muội đã kể. Khi Vương lão tiền bối đến Hưng Vân Trang, không..., đến Lý gia trang gặp Lâm cô nương, lão nhân gia đã nhờ Nhị Thúc ở một bên bảo vệ.”


Nàng thở ra một hơi, rồi khẽ nói: “Từ đó trở đi, mãi đến bây giờ Nhị Thúc của muội cũng chưa rời khỏi đó bước nào.”


Lý Tầm Hoan cười khổ: “Chẳng lẽ ông ấy được Vương đại hiệp dặn là phải ở đó giám thị ta hay sao?”


Tôn Lão Tiên Sinh đáp hộ: “Vương Lân Hoa đã chịu đem thứ quí trọng như thế giao cho Thám Hoa, thì tuyệt nhiên không phải ông ấy không yên tâm về Thám Hoa. Chẳng qua ông ấy không tuyệt đối tin tưởng võ công của Thám Hoa, sợ có người biết chuyện muốn đi cướp sách, nên mới dặn lão Nhị ở lại đó, khi cần thì giúp Thám Hoa một tay.”


Tôn Tiểu Hồng nói: “Khi Nhị Thúc của muội phiêu bạt giang hồ, từng được Vương lão tiền bối cứu mạng một lần. Nhị Thúc ân oán phân minh, việc mà Vương lão tiền bối đã muốn thì dù ông ấy phải ch.ết vạn lần cũng không thể từ chối.”


Tôn Lão Tiên Sinh nói: “Nhưng sau này lão Nhị nghe được Thi Âm cô nương không giao Lân Hoa Bảo Giám cho Thám Hoa, nên sau khi Thám Hoa xuất quan, lão càng không yên tâm, không thể rời đi nữa.”


Lý Tầm Hoan thở dài: “Đã nhận chuyện phó thác là chung thân gánh vác, Tôn Nhị Hiệp thật không thẹn là hảo bằng hữu của Vương lão tiền bối. Nhưng...”


Chàng nhìn thẳng Tôn Lão Tiên Sinh, nói từng tiếng một: “Sao Tôn Nhị Hiệp lại biết Lâm cô nương chưa giao cuốn Lân Hoa Bảo Giám cho tại hạ? Việc này ngay chính tại hạ còn chưa biết cơ mà.”


Tôn Lão Tiên Sinh phà ra một hơi khói thuốc rồi nói chậm rãi: “Ngay cả Thám Hoa cũng không biết thì ta làm sao biết được.”


Lý Tầm Hoan không nói được tiếng nào. Chàng chưa từng nghĩ đến Lâm Thi Âm cũng có việc giấu giếm mình.


Tôn Lão Tiên Sinh lại tiếp: “Vương Lân Hoa không những có bản lãnh giết người mà cũng có thủ đoạn cứu người. Sau tuổi trung niên, ông ấy lại càng tinh thông y đạo, có thể nói là cứu sống được người đã ch.ết, bắt xương trắng mọc ra da thịt.”


Tôn Tiểu Hồng nói: “Long Thiếu Vân là con ruột của Lâm cô nương. Người làm mẹ thì thật không tiếc bất cứ việc gì, nên muội nghĩ...”


Nàng không nói tiếp nữa. Nhưng ý của nàng thì Lý Tầm Hoan đã hiểu, mà bất cứ ai cũng hiểu.


Nhất định Lâm Thi Âm đã trao Lân Hoa Bảo Giám cho con. Nàng đã giấu quyển sách thần kỳ này rất nhiều năm, giữ được bí mật. Vấn đề là tại sao nàng không đem chuyện này nói với chàng.
*
* *


Lần đầu tiên Lý Tầm Hoan gặp Lâm Thi Âm, chàng vẫn còn là một đứa trẻ.
Hôm đó, trời đang có tuyết. Hoa mai trong vườn nở rất đẹp, tuyết dưới gốc mai hình như cũng trắng hơn.


Hôm đó, Lý Tầm Hoan đang đắp một người tuyết dưới gốc mai. Chàng tìm hai cục than sáng nhất, đen nhất, chuẩn bị khảm vào mặt làm hai con mắt cho người tuyết này.


Đó là những lúc vui vẻ nhất trong cuộc đời chàng. Không phải là chàng ưa thích hình người tuyết, chàng đắp người tuyết chẳng qua là muốn hưởng thụ khoảnh khắc vui vẻ đó. Mỗi khi chàng khảm hai con mắt bằng than vào, bộ mặt tròn tròn ngu dại của người tuyết bỗng như có sinh khí. Khoảnh khắc đó chàng thấy vui vẻ khó mà tả được.


Trước giờ chàng chỉ thích xây dựng, rất căm ghét phá hoại. Chàng rất thích cuộc sống, yêu cuộc sống.


Chàng thường lén lút ra vườn để đắp người tuyết, vì không muốn phải chia xẻ niềm vui bí mật của mình cho bất cứ ai. Lúc đó chàng còn chưa biết, niềm vui tuyệt nhiên không thể ít đi vì đem chia cho người khác.


Sau này chàng mới hiểu, niềm vui là một vật kỳ diệu, mình càng chia nhiều cho người khác thì mình càng được nhiều hơn. Tiếc rằng đau khổ cũng vậy, nếu mình muốn chia sẻ đau khổ cho người khác, thì chỉ làm nỗi đau khổ càng sâu đậm hơn.


Mặt người tuyết vốn tròn vành vạnh. Chàng đang suy nghĩ không biết nên gắn đôi mắt vào đâu, thì lúc đó mẹ chàng, một nữ nhân luôn đau yếu, lại phá lệ ra vườn, dẫn theo một cô bé gái khoác áo choàng màu đỏ.


Tấm áo đó đỏ tươi, còn tươi hơn cả hoa mai. Nhưng sắc mặt bé gái này lại rất trắng, trắng hơn cả tuyết. Đỏ và trắng luôn là hai màu mà chàng ưa thích nhất, bởi vì màu trắng tượng trưng cho trong trắng, màu đỏ là biểu hiện của nhiệt tình.


Lần đầu tiên chàng nhìn thấy nàng là đã phát sinh ra cảm giác hiểu nhau và thương mến, nhịn không nổi muốn dắt tay nàng để nàng khỏi bị gió rét thổi ngã.


Mẹ chàng bảo chàng: “Đây là con gái của dì. Dì của con đã đi rất xa, nên từ hôm nay cô bé sẽ ở trong nhà mình. Con cứ trách mãi là mình không có em gái, bây giờ mẹ đã tìm được một đứa em gái cho con, thì con nhất định phải đối xử tốt với em, đừng để nó phải buồn phiền.”


Nhưng lúc đó chàng không nghe mẹ nói gì, vì cô bé đã đến cạnh chàng, nhìn người tuyết mà hỏi: “Tại sao nó không có mắt?”
Đột nhiên chàng hỏi: “Muội có thích gắn mắt cho nó không?”


Đương nhiên là cô bé thích mê, gật đầu lia lịa. Chàng liền trao hai viên than sáng bóng đó cho nàng.


Đó là lần đầu tiên chàng chia sẻ niềm vui cho người khác. Từ ấy trở đi, bất cứ cái gì vui vẻ chàng cũng chia với nàng, thậm chí một miếng bánh nho nhỏ chàng cũng giấu đi, đợi đến lúc gặp nhau để chia xẻ với nàng một nửa.


Chỉ cần nhìn thấy ánh sáng lấp lánh trong mắt nàng, là chàng cảm thấy vui sướng hơn bao giờ hết, vĩnh viễn không có gì thay thế được. Thậm chí, nếu phải chia một phần cuộc sống của mình cho nàng, chàng cũng không tiếc.


Mà nàng cũng thế, chàng biết vậy và thật sự tin như vậy.
Lúc họ phải chia tay nhau, tận đáy lòng chàng vẫn cho rằng chỉ có mình mới chia sẻ được hết những nỗi đau, niềm vui, bí mật của nàng.


Chàng đã thật sự tin tưởng như thế, mãi đến bây giờ...
*
* *


Đêm qua đã có tuyết rơi trên con đường hẹp này. Nhưng tuyết đã tan chảy, dưới đất chỉ còn lại sình lầy, không có chỗ nào để đặt chân.


Bên cạnh cũng có một con đường nhỏ hơn, khô ráo, nhưng Lý Tầm Hoan vẫn đi dưới bùn lầy. Chàng đang thích đạp chân lên bùn lầy để hưởng thụ cảm giác mềm mềm và âm ấm. Như thế, chàng cảm thấy yên vui hơn.


Trước đây, chàng rất ghét bùn lầy, thà đi vòng thật xa chứ không chịu đi đường ngắn mà có bùn lầy. Nhưng bây giờ, chàng mới phát hiện bùn lầy cũng có chỗ đáng yêu, nó im lặng chịu đựng mình chà đạp, lại còn đem sự ẩm ướt và mềm mại để ve vuốt chân mình.


Trên thế gian này cũng có những người giống như bùn lầy vậy. Họ cứ mãi nhẫn nhịn cho người khác sỉ nhục và khinh miệt, hoàn toàn không một lời oán trách, hoàn toàn không phản kích...


Nếu trên đời không có bùn lầy thì hạt giống làm sao có thể nảy mầm, cây cối làm sao có thể mọc ra những chùm rễ rắn chắc được. Những người đó không oán trách, không hằn học, vì họ tự hiểu rõ giá trị cao quí của chính mình.


Lý Tầm Hoan thở ra một hơi rất dài, ngẩng đầu lên. Bức tường cao hình như mới được quét lại, còn cái bảng hiệu nhỏ của Tôn Đà Tử vẫn rất cũ nát.


Từ đây không nhìn thấy được người bên trong tường. Bây giờ còn là ban ngày, đương nhiên không nhìn thấy được ngọn đèn bên trong.


Đến đêm, ngọn đèn cô đơn có còn trên căn lầu nhỏ? Lý Tầm Hoan nhịn không nổi, lại nghĩ đến những chuyện mình không muốn nghĩ.


Suốt hai năm, chàng cứ ngồi ở cái bàn trong góc quán Tôn Đà Tử, chờ đợi ánh đèn kia thắp lên. Tôn Đà Tử đã im lặng ngồi cạnh, không hề mở miệng hỏi câu nào.


Đột nhiên Tôn Tiểu Hồng thở dài, khẽ nói: “Bây giờ chưa đến giờ cơm tối, thực khách chưa đến. Không biết Nhị Thúc đang làm gì? Phải chăng đang lau bàn ghế?”


Tôn Đà Tử không lau bàn. Ông ta vĩnh viễn không lau bàn nữa.
Nhưng trên bàn vẫn có một bàn tay, trong bàn tay còn nắm một cái giẻ lau, rất chặt.


Cửa tiểu điếm đang đóng chặt, gõ cửa không ai đáp, kêu réo cũng không ai đáp. Tôn Tiểu Hồng còn lo lắng hơn cả Lý Tầm Hoan, vừa xô cửa là nhìn thấy ngay bàn tay này, một bàn tay đã bị chặt đứt ở chỗ cổ tay.


Tôn Tiểu Hồng kinh hãi xông tới, nhìn chằm chằm vào chiếc bàn. Đó chính là cái bàn mà hai năm nay Lý Tầm Hoan đã ngồi uống rượu.


Sắc mặt của Lý Tầm Hoan cũng xanh hẳn. Chàng nhận ra bàn tay này, còn quen thuộc hơn cả Tôn Tiểu Hồng.


Hai năm nay, bàn tay này đã không biết bao nhiêu lần rót rượu cho chàng. Lúc chàng say sưa, chính bàn tay này dìu chàng vào phòng. Lúc chàng bệnh, chăm sóc thuốc thang cho chàng cũng chính là bàn tay này.


Bây giờ bàn tay này đã biến thành một khối thịt ch.ết, sắp khô cứng, máu đã ngưng tụ, gân đã co rút. Những ngón tay đang siết cái giẻ lau thật chặt, tựa như đang bám víu lấy cuộc sống.


Có phải lão đã bị chém đứt tay trong lúc lau bàn hay không? Bàn được lau rất sạch, rất sáng. Trong lúc lau cái bàn này, có phải lão đang nghĩ đến Lý Tầm Hoan không?


Đột nhiên Lý Tầm Hoan cảm thấy ngực đau nhói. Nước mắt của Tôn Tiểu Hồng cũng bắt đầu chảy, nàng nghẹn ngào hỏi: “Huynh biết bàn tay này là của ai không?”
Lý Tầm Hoan nặng nề gật đầu một cái.


Tôn Tiểu Hồng nói, giọng khàn khàn: “Còn Nhị Thúc đâu? Thân thể Nhị Thúc đâu?”
Đột nhiên nàng chạy ra ngoài. Trong ngoài tiểu điếm hoàn toàn vắng lặng, một người cũng không có.


Tôn Tiểu Hồng lại chạy trở vào, Lý Tầm Hoan vẫn đứng trước bàn, cố bắt mình nhìn kỹ bàn tay đó.


Bàn tay đã khô đen, bốn ngón tay cắm vào cái giẻ lau bàn, chỉ có ngón trỏ chĩa ra, thẳng cứng như một đoạn nến, chỉ thẳng vào một cửa sổ.


Cửa sổ này đang mở. Lý Tầm Hoan ngẩng đầu lên nhìn vào cánh cửa sổ này, Tôn Tiểu Hồng cũng nhìn theo.


Bên ngoài gió bấc rất lạnh, lạnh đến mức nước sình dưới cống cũng đã đóng băng. Có một đường hẻm rất nhỏ, không rộng hơn ống cống bao nhiêu. Có thể đây không phải là một cái hẻm, chỉ là một đường cống để thoát nước.


Hai người men theo đường cống mà đi, tận cùng là một cái cửa rất hẹp, không biết là cửa sau của nhà nào. Ngoài cánh cửa ấy ra, hoàn toàn không còn con đường nào khác. Đây là một con hẻm cụt.


Cánh cửa sau đang khép hờ, rất âm u, nhưng rõ ràng trên cửa có một dấu bàn tay màu xám sẫm. Đó là một bàn tay máu.


Tôn Tiểu Hồng xông đến, nhưng đột nhiên dừng lại, từ từ quay người đối diện với Lý Tầm Hoan, môi nàng đã bị cắn đến chảy máu.


Nàng nhìn trừng trừng Lý Tầm Hoan, nói: “Thượng Quan Kim Hồng đoán được huynh sẽ đến đây.”
Lý Tầm Hoan im lặng.


Tôn Tiểu Hồng tiếp: “Lão biết huynh chắc chắn không đến Hưng Vân Trang trước, vì huynh không muốn gặp Long Tiêu Vân. Dù huynh có lo lắng như thế nào, cũng nhất định sẽ đến tiệm của Nhị Thúc xem thử ra sao.”


Lý Tầm Hoan vẫn im lặng, không nói tiếng nào.
Tôn Tiểu Hồng tiếp: “Tất cả chuyện này, chỉ là một cái bẫy để đợi huynh rơi vào.”
Miệng Lý Tầm Hoan càng mím chặt hơn.


Tôn Tiểu Hồng tiếp: “Vì thế huynh nhất định không nên đi vào cánh cửa này.”
Lý Tầm Hoan đột nhiên hỏi: “Còn muội thì sao?”


Tôn Tiểu Hồng cắn môi: “Muội thì không sao. Thượng Quan Kim Hồng đâu có vội vàng giết muội làm gì?”
Lý Tầm Hoan hỏi chậm rãi: “Vì thế muội có thể đi vào ư?”


Tôn Tiểu Hồng đáp: “Muội không thể không vào trong ấy.”
Lý Tầm Hoan thở ra một hơi: “Xem ra muội không hiểu ta bằng Thượng Quan Kim Hồng.”
Tôn Tiểu Hồng hỏi: “Vậy sao?”


Lý Tầm Hoan buồn bã nói: “Lão đã khổ tâm bố trí ra cạm bẫy này, chính vì lão biết ta không thể không vào trong ấy. Cho dù có người đã chặt đứt hai chân ta, ta cũng phải bò vào trong ấy.”


Tôn Tiểu Hồng nhìn Lý Tầm Hoan, hai dòng lệ nóng hổi không nén nổi phải chảy ùa ra. Đột nhiên nàng nhảy tới ôm Lý Tầm Hoan thật chặt, lệ nóng làm ướt cả bộ mặt tiều tụy của chàng.


Nàng dụi dụi vào mặt chàng, hình như muốn dùng nước mắt để rửa đi vẻ mặt tiều tụy của chàng. Trên thế gian, nếu có một thứ có thể lau sạch vẻ tiều tụy của một con người, thì đó chính là nước mắt của người yêu.


Chân tay của Lý Tầm Hoan đang cứng đờ cũng từ từ mềm nhũn ra, cuối cùng đưa tay ra ôm lấy nàng.
Hai người ôm nhau rất chặt. Đây là lần đầu tiên họ ôm nhau, mà không chừng cũng là lần cuối cùng.


Hình như ngay cả mặt trời cũng không muốn rọi vào đường cống này. Con hẻm âm u như lúc hoàng hôn. Phía sau cánh cửa đó lại còn âm u hơn.


Cánh cửa vừa bị xô bật ra, một mùi hôi đã ập vào mặt, làm hai người phải buồn nôn. Đó là mùi tanh tưởi của máu.


Tiếp theo, họ nghe tiếng thở ồ ồ, tiếng thở như của dã thú trọng thương, giống như tiếng rên rỉ của ma quỉ dưới địa ngục.
Âm thanh rõ ràng là từ dưới đất vọng lên.
*
* *


Dưới hầm có đến mười mấy người, nghiến răng nghiến lợi cứ như dã thú đang giãy giụa tranh đấu với cái ch.ết.
Không một ai mở miệng, thậm chí nếu kề dao vào cổ họ thì cũng không ai mở miệng.


Tất cả có hai mươi bảy người, hiện đã có chín người nằm yên dưới đất. Còn lại mười tám người chia ra hai phía, một bên đông một bên ít.


Một bên gồm mười ba người, đều mặc áo vàng nhạt. Binh khí của họ đa số là thứ ngoại môn, hiếm thấy trong giang hồ. Thậm chí có người cầm cái bàn tính bằng sắt.


Còn bên kia lẽ ra có chín người nhưng bây giờ chỉ còn năm, trong đó có một người mù, lại có một đại hán mình trần, tay không binh khí. Thân thể hắn trông như đúc bằng sắt vậy.


Hàn quang nhấp nháy, một thanh Ngư Lân Đao chặt vào cánh tay trái của hắn, nhưng cứ như chặt vào một khúc gỗ. Hắn dùng cánh tay bằng da thịt kẹp chặt lưỡi dao sắc bén đó, kẹp chặt đến tận xương.


Người áo vàng cố vận sức để kéo ra mà không nổi. Thiết chưởng của đại hán mình trần đã đập trúng ngực hắn. Hắn còn kịp nghe thấy tiếng lắc cắc của xương mình gãy, rồi bình một tiếng, thân thể bắn ra ngoài.


Nhưng cánh tay trái của đại hán kia cũng không thể cất lên được nữa. Đột nhiên hắn cất giọng, rất trầm: “Các vị rút lui, để ta chặn bọn chúng lại. Mau rút lui đi!”


Không ai rút lui, cũng không ai trả lời. Một người đã ngã dưới đất đột nhiên lăn qua, hét lớn: “Không thể rút lui. Có ch.ết hết cũng phải đem hắn về.”


Đây là một tầng hầm, đốt đèn quanh năm suốt tháng. Dưới ánh sáng nhạt nhẽo âm u của ngọn đèn gắn trên tường, có thể thấy đó là một nữ nhân vừa to cao vừa mập mạp, mặt có một vết sẹo đao dài từ khóe mắt tới khóe miệng.


Mắt phải của mụ đã mù, mắt trái nhìn trừng trừng vào gã đại hán. Con mắt này hình như cũng trống rỗng, chỉ có thù hận và thù hận, một nỗi thù hận đến ch.ết cũng không tan.


Đây chính là nữ đồ tể Ông Đại Nương.
Còn gã đại hán này, chẳng lẽ không phải là Thiết Truyền Giáp, người đã lâu năm biệt vô tin tức?


Đúng là hắn, vì ngoài Thiết Truyền Giáp ra không ai có xương cứng được như thế.


Âm Đại Nương giãy giụa muốn ngồi dậy, nhìn trừng trừng vào Thiết Truyền Giáp, thét lớn: “Tên này là của chúng ta. Ngoài chúng ta, không ai được đụng đến hắn, không ai được...”


Lại nghe một tiếng “soạt”, hàn quang lại nhấp nháy, mụ lại ngã xuống. Lần này mụ vĩnh viễn không bò dậy được nữa. Nhưng con mắt còn lại của mụ vẫn trợn to như cũ, vẫn nhìn trừng trừng vào Thiết Truyền Giáp.


Đây là một cái ch.ết không đau đớn, mà cũng không sợ hãi. Bởi vì trong lòng của mụ chỉ còn lại thù hận, ngoài thù hận ra mụ không cảm thấy gì nữa.


Thiết Truyền Giáp nghiến răng, vừa trúng thêm một đao nữa, nhưng vẫn đứng vững, giậm chân nói: “Các vị còn chưa chịu đi sao? Nếu các vị ch.ết hết, thì ai là người bắt ta đi?”


Lão thầy bói mù đột nhiên cười nham hiểm: “Bọn ta dù ch.ết hết, nhất định oan hồn cũng về lôi ngươi....”


Võ công của lão tuy lợi hại hơn nhiều người có mắt, nhưng cũng vẫn là một người mù, trong lúc giao đấu chỉ dựa vào tai để xác định phương vị. Nhưng bất luận là ai, khi mở miệng nói chuyện thì tai cũng không thể linh mẫn như bình thường.


Lão chưa nói xong, trước ngực đã bị Hổ Đầu Câu móc rách một đường. Khi cái móc rút về, nó đã giật theo một thớ thịt dài, đầy máu tươi.


Thiết Truyền Giáp nhịn không nổi nữa. Hắn đã từng giết người nhưng không phải là hung thủ. Xương cốt của hắn tuy cứng, nhưng lòng của hắn rất mềm.


Bây giờ tay hắn đã mềm ra, không thể giết người nữa. Đột nhiên hắn lên tiếng: “Nếu ta ch.ết dưới tay các vị thì sao?”


Lão mù nói lạnh nhạt: “Việc ở đây chẳng liên quan gì đến chúng ta, chúng ta chỉ vì tìm ngươi mà đến.”


Một người khác lớn tiếng: “Trung Nguyên Bát Nghĩa mà không tự tay lấy được mạng ngươi thì ch.ết không nhắm mắt.”


Người này mặt rỗ, trong tay cầm hai lưỡi đao một dài một ngắn. Đây chính là Công Tôn Vũ, truyền nhân duy nhất của Âm Dương Đao Bắc Phái.


Đột nhiên Thiết Truyền Giáp cười rộ. Lúc này chẳng ai biết sao hắn lại cười, tiếng cười làm người ta phải dựng tóc gáy.


Hắn cười ha hả, lớn tiếng nói: “Thì ra các vị chỉ muốn tự tay giết ta. Chuyện này thì dễ lắm.”


Hắn xoay tay phóng chưởng đẩy lùi mấy tên áo vàng phía trước, rồi đột nhiên vọt tới Công Tôn Vũ, đúng hơn là vọt tới ngọn đao của Công Tôn Vũ. Công Tôn Vũ chưa kịp kinh hãi thì thanh đao ngắn đã đâm vào ngực Thiết Truyền Giáp.


Thiết Truyền Giáp còn cố ưỡn thêm ngực về phía trước, thở hổn hển như một con trâu: “Bây giờ... nợ của ta đã trả sạch rồi... các vị còn chưa chịu đi.”


Da mặt của Công Tôn Vũ giần giật, đột nhiên điên cuồng thét lên một tiếng, rút đao ra. Máu tươi phun lên ngực hắn như mưa.


Tiếng thét của hắn chợt ngưng bặt, nhào sấp xuống đất, trên lưng đã cắm ba cây Hoa Thương. Chuôi thương đỏ tươi như máu, vẫn đang rung động.


Thiết Truyền Giáp cũng đã ngã xuống, nhưng vẫn cố lập lại: “Nợ của ta... đã trả sạch... sao các vị.. chưa chịu đi...”


Hắn nhìn thấy một cây Hoa Thương đang phóng tới mình, nhưng không đỡ gạt mà cũng không tránh né.






Truyện liên quan