Chương 2

Sommes-nous les deux livres
d’un même ouvrage?
Chúng ta có phải là hai mảnh ghép của cùng một vật thể?
Dành tặng J O S H
Phần 1: Thiên thần hủy diệt


Có những thứ xấu xa bước đi trong bóng tối; và có những thiên thần hủy diệt bay lượn trong những bức màn của sự vô hình và thiên nhiên thần bí giúp chúng ta tiêu diệt những thứ đó; chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng có thể cảm nhận được sức mạnh của họ và chúng ta ch.ết dưới lưỡi kiếm của họ.


- Jeremy Taylor, “A Funeral Sermon”
1. Chủ nhân
“Cho tôi một cốc cà phê.”
Cô phục vụ bàn nhướn đôi lông mày được kẻ vẽ cẩn thận lên. “Cậu không muốn gọi thêm đồ ăn sao?” cô ta hỏi. Giọng cô ta khá nặng, tỏ rõ sự thất vọng.


Simon Lewis trách cô ta; hẳn cô nàng mong nhận được món tiền boa hời hơn là số cô nhận được nhờ việc phục vụ một cốc cà phê. Nhưng chuyện ma cà rồng không ăn uống đâu phải lỗi của cậu. Tới nhà hàng, dăm ba lần cậu cũng gọi đồ ăn, cốt để mọi người thấy ta bình thường như bao người khác. Nhưng vào một buổi tối muộn của ngày thứ ba, khi quán Veselka gần như vắng tanh vắng ngắt thì có gọi đồ ăn cũng chẳng giúp cho cậu khỏi bị dòm ngó là mấy. “Chỉ cà phê thôi.”


Với một cái nhún vai, cô phục vụ cầm thực đơn của cậu và đánh dấu. Simon ngồi tựa vào chiếc ghế tựa bằng nhựa cứng và ngó quanh quất. Veselka, cái quán ăn nằm ở góc Đường số Chín và Đại lộ số Hai, là một trong những địa điểm ưa thích của cậu tại khu Hạ Đông - một quán ăn tại khu vực cổ xưa của New York với những bức tường được dán giấy dán tường tông màu đen trắng. Bạn có thể cà kê ở đây cả ngày chỉ cần bạn gọi cà phê sau nửa tiếng một. Họ cũng phục vụ món bánh Ba Lan[ ] và súp củ cải đỏ[ ] dành cho người ăn chay mà ngày xưa cậu rất thích, nhưng những ngày đó đã trôi vào quá khứ từ vài tháng trước.


[ ] Nguyên văn: pierogi - một món bánh của người Ba Lan có vỏ bằng bột nhão với nhân là pho mát, khoai tây, hành, cải bắp, nấm, thịt. (ND)
[ ] Nguyên văn: borscht - món súp củ cải đỏ nấu cùng thịt của người Ukraina. (ND)




Giờ mới là giữa tháng mười, vậy mà quán đã treo đồ trang trí Halloween - một tấm biển lắc lư có dòng chữ BỊ GHẸO-HAY-ĂN- SÚP! kèm theo một ma cà rồng cắt bằng bìa các-tông mang tên Bá tước Blintzula. Thời xưa xửa xừa xưa, Simon và Clary thấy những món đồ trang trí hạng bét dành cho ngày của những hồn ma này thật lố bịch, nhưng giờ Bá tước với cặp răng nanh giả và áo choàng đen không khiến Simon thích thú như xưa nữa.


Simon đưa mắt nhìn ra ngoài ô cửa sổ. Đêm lộng gió, những chiếc lá bay lạo xạo trên Đại lộ số Hai trông như những nắm hoa giấy. Một cô gái đang sải bước đi trên đường, trên người khoác chiếc áo dài có thắt đai và mái tóc dài tung bay trong gió. Mọi người quay đầu ngắm nhìn cô. Ngày xưa Simon cũng như những người đó, cũng sẽ ngắm nhìn những cô gái như thế rồi vẩn vơ suy nghĩ xem họ đi đâu và gặp ai. Và cậu thừa biết, chắc chắn đối tượng họ gặp không phải những chàng trai như cậu.


Nhưng cô gái này thì khác. Cái chuông trước cửa quán ăn kêu lanh canh khi cánh cửa được mở ra, và Isabelle Lightwood bước vào.


Cô mỉm cười khi thấy Simon, rồi tiến tới, cởi áo khoác và treo lên khoác ghế trước khi ngồi xuống. Cô nàng mặc một trong những bộ đồ được Clary gọi là “đồ Isabelle điển hình”: một chiếc váy ngắn bó bằng vải nhung, đi tất lưới và bốt. Một con dao nhét trên chiếc bốt bên trái mà Simon biết chỉ mình cậu nhìn thấy; và, mọi người trong quán đều không hề rời mắt khi cô ngồi xuống, hất tóc ra sau.


Dù mặc gì thì Isabelle cũng khiến người khác phải chú ý, hệt như một buổi bắn pháo hoa vậy.


Isabelle Lightwood xinh đẹp. Khi Simon gặp cô, cậu đã tưởng cô không có thời gian cho một chàng trai như cậu. Cậu đoán gần đúng. Isabelle thích những dạng con trai mà bố mẹ không ưa, và trong thế giới của cô thì điều đó có nghĩa là cư dân Thế Giới Ngầm - tiên, người sói và ma cà rồng. Việc họ thường xuyên hẹn hò suốt một hai tháng nay khiến cậu ngạc nhiên, thậm chí khi mối quan hệ của họ chỉ dừng lại ở những buổi gặp mặt không thường xuyên như thế này. Và cậu không thể nào không tự hỏi rằng nếu cậu không biến thành ma cà rồng, nếu cuộc đời cậu không thay đổi hoàn toàn trong khoảnh khắc đó, họ có bao giờ hẹn hò không?


Cô vén tóc sau tai, nở nụ cười tỏa sáng. “Trông cậu ổn lắm.”


Simon ngắm nhìn mình qua kính cửa sổ quán ăn. Sự ảnh hưởng của Isabelle với vẻ bề ngoài của cậu rất rõ ràng kể từ ngày họ hẹn hò. Cô bắt cậu phải chuyển từ áo hoodie sang áo khoác da và đi những đôi giày đắt tiền thay cho giày vải. Và tình cờ làm sao, một đôi tốn những ba trăm đô la lận. Cậu vẫn mặc những chiếc áo sơ mi có slogan - cái áo này có in dòng chữ KHÔNG CÓ CỬA CHO THUYẾT HIỆN SINH - nhưng chiếc quần bò thì không hề có vết rách ở đầu gối và túi thủng cũng không luôn. Cậu cũng để tóc dài đến tầm rủ xuống mắt, che đi trán, nhưng điều đó cần thiết hơn việc Isabelle có thích hay không.


Clary đã trêu chọc về bề ngoài của cậu; nhưng dù gì, Clary luôn buồn cười trước mọi thứ trong câu chuyện tình yêu của cậu. Cô không tin cậu nghiêm túc trong việc hẹn hò cùng Isabelle. Tất nhiên, cô cũng không tin cậu cũng đang hẹn hò Maia Roberts, một cô bạn tình cờ là người sói, một cách nghiêm túc hệt như thế. Và cô thật sự không tin nổi Simon chưa hề nói cho người này biết về người kia.


Simon không biết chắc chuyện xảy ra như thế nào. Maia thích tới nhà chơi Xbox cùng cậu - họ không có món đồ giải trí đó tại trạm cảnh sát bị bỏ không - nay được trưng dụng làm nơi trú ngụ cho đàn người sói - và tới lần thứ ba hay thứ tư cô gái sói ấy ghé qua chơi, cô nàng đã hôn tạm biệt cậu trước khi về. Cậu rất hài lòng, và vì thế gọi cho Clary để hỏi xem cậu có nên nói cho Isabelle biết không. “Hãy nghĩ xem tình cảm của cậu với Isabelle là thế nào,” cô đã nói. “Rồi hẵng kể.”


Hóa ra đó là một lời khuyên tồi. Cả tháng nay cậu vẫn không hiểu cậu và Isabelle đang ra sao, và vì thế mà cậu chẳng đả động tới chuyện kia. Và càng nhiều thời gian trôi qua thì nói ra chuyện đó càng khó hơn. Tới giờ cậu vẫn lo liệu ổn. Isabelle và Maia không hẳn là bạn và họ hiếm khi gặp nhau.


Thật đáng tiếc cho cậu, vì điều đó sắp thay đổi. Mẹ Clary và người bạn lâu năm của cô ấy, chú Luke, sắp sửa kết hôn trong vài tuần tới, và cả Isabelle lẫn Maia đều được mời tới dự. Và phải nói rằng đó một chuyện khiến Simon hãi hùng hơn cả bị một nhóm thợ săn ma cà rồng truy đuổi vòng vòng trên những con phố của New York.


“Vậy,” Isabelle lên tiếng, kéo cậu khỏi dòng suy nghĩ miên man. “Sao cậu chọn nơi này chứ không phải quán Taki’s? Họ phục vụ máu ở đó mà.”


Simon nhăn mặt vì cô nói quá lớn. Isabelle không được tế nhị lắm. May mà không ai có vẻ đang hóng chuyện, kể cả cô phục vụ đã quay lại, đặt đánh bịch cốc cà phê trước mặt Simon, mắt nhìn Izzy và bỏ đi không buồn hỏi xem cô chọn gì.


“Mình thích nơi này,” cậu nói. “Clary và mình thường tới đây mỗi khi bạn ấy có lớp tại Tisch. Họ có món súp củ cải đỏ và bánh tráng[ ] ngon lắm - chúng giống như những chiếc bánh bao nhân pho mát ngọt ngào vậy - thêm nữa nó mở cửa cả đêm.


Nhưng Isabelle hoàn toàn chẳng để tâm tới câu chuyện cậu vừa kể. Cô đang nhìn qua vai cậu. “Cái gì kia?”
Simon nhìn theo. “Đó là Bá tước Blintzula[ ] .”
[ ] Nguyên văn blintz - một loại bánh kếp tráng mỏng. (ND)
[ ] Lai giữa Dracula và Blintz. (ND)


Simon nhún vai. “Đồ trang trí cho ngày Halloween ấy mà. Bá tước Blintzula dành cho tụi trẻ con. Như kiểu Bá tước Chocula, hay Bá tước trong chương trình Phố Sesame ấy mà.” Cậu cười trước vẻ bối rối của cô nàng. “Cậu biết đấy. Ông ta dạy lũ trẻ toán cộng.”


Isabelle đang lắc đầu. “Có một chương trình TV thuê ma cà rồng dạy toán cho trẻ con á?”
“Cậu thấy thì hiểu ngay thôi.” Simon lầm rầm.


“Có một vài nền tảng được nhắc tới trong truyện thần thoại để giải thích cho chuyện này,” Isabelle nói, chuyển sang giọng của giảng viên Thợ Săn Bóng Tối. “Một vài truyện thần thoại kể rằng ma cà rồng bị ám ảnh bởi những con tính, và nếu cậu vãi những hạt lúa trước mặt họ, họ sẽ dừng việc đang làm và ngồi đếm. Tất nhiên, điều đó chẳng đúng hơn việc ma cà rồng sợ tỏi là mấy. Và ma cà rồng chẳng hứng thú việc dạy trẻ con. Ma cà rồng rất đáng sợ.”


“Cảm ơn,” Simon nói. “Chỉ là chơi chữ thôi mà Isabelle. Ông ta là Bá tước. Ông ta thích tính toán[ ]. Cậu biết đấy. ‘Các cháu cho ta biết hôm nay Bá tước ăn gì? Một chiếc bánh quy sô cô la, hai chiếc bánh quy sô cô la, ba chiếc bánh quy sô cô la…”


[ ] Nguyên văn “He’s the Count. He likes counting.” - Count vừa có nghĩa là bá tước vừa có nghĩa là tính toán. (ND)
Một luồng gió lạnh ùa vào khi cửa nhà hàng mở ra để người khách khác bước vào. Isabelle rùng mình và với lấy cái khăn quàng lụa màu đen. “Điều đó chẳng thực tế tí nào.”


“Cậu thích gì hơn nào? ‘Các em cho ta biết hôm nay Bá tước ăn gì? Một dân làng yếu xìu, hai dân làng yếu xìu, ba dân làng yếu xìu chắc…”
“Suỵt.” Isabelle đã quàng khăn xong và nhoài người tới, đặt tay lên cổ tay Simon.


Đôi mắt đen của cô đột nhiên long lanh, theo cách chúng chỉ có khi cô chuẩn bị săn hoặc nghĩ về săn quỷ. “Nhìn đằng kia kìa.”


Simon nhìn theo. Có hai người đàn ông đứng cạnh tủ bánh bằng kính, trong đó bày nào bánh phủ tuyết dày, rồi từng đĩa bánh rugelach[ ], và cả những chiếc bánh su kem nữa. Nhưng cả hai gã đó đều chẳng có chút hứng thú gì với thức ăn. Cả hai đều lùn xủn, người to bè xấu xí, xương gò má nhô cao hệt như những lưỡi dao nhô lên trên khuôn mặt trắng bệch. Cả hai đều có mái tóc xám mỏng toẹt và đôi mắt xám nhạt, và cùng mặc măng tô màu xám đen dài chạm sàn.


[ ] Rugelach: món bánh nổi tiếng của Pháp được làm từ nhiều nguyên liệu như kem pho mát, quả mâm xôi, mứt, hạt hồ đào… (ND)
“Giờ,” Isabelle nói, “cậu nghĩ họ là ai?”


Simon nheo mắt nhìn. Cả hai đều nhìn lại cậu bằng đôi mắt không lông mi trông như hai cái hốc rỗng không. “Trông họ giống lũ ma lùm ma bụi quỷ quyệt.”
“Chúng là người kí sinh,” Isabelle rít lên. “Chúng thuộc về một ma cà rồng.”
“ ‘Thuộc về’ theo nghĩa là…”


Cô khụt khịt tỏ ý mất kiên nhẫn. “Vì Thiên Thần, cậu không có tí kiến thức nào về giống loài của mình sao? Cậu thậm chí không hiểu ma cà rồng được sinh ra thế nào à?”
“À một ma cà rồng mẹ và một ma cà rồng bố yêu nhau tha thiết…”


Isabelle nhăn mặt. “Được rồi, cậu biết rằng ma cà rồng không cần quan hệ chăn gối để cho ra thế hệ sau, nhưng mình cá cậu không biết chuyện sinh sản trong ma cà rồng ra sao.”
“Mình có biết chứ,” Simon nói. “Mình là ma cà rồng vì mình uống ít máu của Raphael trước khi ch.ết. Uống máu cộng ch.ết bằng ma cà rồng.”


“Không hẳn,” Isabelle nói. “Cậu là ma cà rồng vì cậu đã uống ít máu Raphael, sau đó bị những ma cà rồng khác cắn và rồi cậu ch.ết. Cậu cần được cắn trong quá trình đó.”
“Vì sao?”
“Nước bọt của ma cà rồng là… chất xúc tác. Chất xúc tác chuyển đổi.”
“Tởm,” Simon nói.


“Đừng có nói ‘tởm’ với mình. Cậu là người được hưởng nước bọt thần thánh mà. Một con ma cà rồng giữ con người bên mình và uống máu trực tiếp từ họ khi thiếu máu dự trữ - hắn coi người đó giống như những cỗ máy đồ ăn vặt biết đi vậy.” Izzy nói với vẻ kinh tởm. “Cậu nghĩ họ yếu đi vì mất máu liên tục, nhưng nước bọt của ma cà rồng thật ra có khả năng chữa lành vết thương. Nó giúp tăng lượng hồng cầu, khiến con người khỏe mạnh hơn và sống lâu hơn. Vì thế chuyện ma cà rồng hút máu người không hề phạm Luật. Con người thật ra không bị sao hết. Tất nhiên đôi lúc ma cà rồng muốn nhiều hơn một bữa ăn nhẹ, hắn muốn một người kí sinh - và hắn bắt đầu cho người bị cắn một chút xíu máu của mình, chỉ để khiến người kia phải ngoan ngoãn nghe lời chủ nhân, bị ràng buộc với chủ nhân. Người kí sinh tôn thờ chủ nhân, luôn muốn hoàn thành nguyện vọng của chủ nhân của họ. Tất cả những gì họ cần là được ở gần chủ nhân của mình. Giống như khi cậu trở lại Dumont vậy. Cậu bị kéo tới với ma cà rồng mà cậu uống máu.”


“Raphael,” Simon rầu rĩ nói. “Mình nói cho cậu hay, dạo gần đây mình không còn khao khát đến cháy bỏng được ở cạnh anh ta nữa rồi.”


“Đúng, cảm giác đó sẽ biến mất khi cậu trở thành ma cà rồng toàn phần. Chỉ có người kí sinh mới tôn thờ và không thể trái lời chủ nhân. Cậu không thấy sao? Khi cậu trở lại Dumont, nhóm ma cà rồng của Raphael đã hút kiệt máu cậu, cậu ch.ết, và rồi cậu biến thành ma cà rồng. Nhưng nếu chúng không hút khô xác cậu, nếu chúng chỉ cần cho cậu uống thêm một chút máu thôi, cậu sẽ biến thành người kí sinh ngay.”


“Nghe rất ư thú vị,” Simon nói. “Nhưng chúng không giải thích chuyện hai gã kia nhìn chúng ta đến không chán mắt.”
Isabelle lại nhìn hai gã kia. “Họ đang nhìn cậu. Hoặc là chủ nhân của họ đã ch.ết và họ muốn tìm chủ nhân mới. Biết đâu cậu sắp có thêm vài thú cưng,” Cô cười toe toét.


“Hoặc,” Simon nói, “có thể họ tới vì món khoai tây chiên.”
“Người kí sinh không ăn. Họ sống nhờ hỗn hợp giữa máu ma cà rồng và máu động vật. Nó giúp kiềm chế quá trình oxi hóa cơ thể. Họ không bất tử nhưng lão hóa rất chậm.”


“Buồn là,” Simon nói và nhìn họ, “có vẻ họ không biết chăm chút vẻ bề ngoài.”
Isabelle ngồi thẳng dậy. “Họ đang tới đấy. Chắc chúng ta sắp biết họ muốn gì rồi.”


Hai gã người kí sinh tiến tới như thể đang trên bánh xe. Họ không bước mà là lướt đi êm như ru. Họ chỉ mất vài giây để đi hết chiều dài nhà hàng; khi họ tới gần bàn của Simon, Isabelle đã rút con dao ra khỏi bốt. Nó nằm trên bàn và tỏa sáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Nó là một con dao bằng bạc, lưỡi dày và đen với những hình thập tự khắc trên cả hai mặt chuôi. Hầu hết những vũ khí chống ma cà rồng đều có trang trí hình những cây thánh giá mà theo Simon thì nguyên nhân là do hầu hết ma cà rồng đều theo đạo Thiên Chúa. Ai mà ngờ được việc mình theo một tôn giáo nhỏ lại có tác dụng lớn đến thế?


“Đến gần thế là đủ rồi,” Isabelle nói, khi hai tay người kí sinh dừng lại bên bàn, những ngón tay cô chỉ cách con dao có vài inch. “Cả hai có chuyện gì thì nói đi.”
“Thợ Săn Bóng Tối.” Sinh vật bên trái rít lên khe khẽ. “Chúng tôi không được biết cô sẽ xuất hiện trong hoàn cảnh này.”


Isabelle nhướn hàng lông mày thanh mảnh. “Và hoàn cảnh đó là?”
Tay hai người kí sinh đưa ngón tay xám dài chỉ vào Simon. Móng tay hắn vàng ệch và sắc nhọn. “Chúng tôi có vài thỏa thuận với ma cà rồng Ưa sáng.”
“Không đâu,” Simon nói. “Tôi không biết hai người là ai. Chưa từng gặp luôn.”


“Tôi là ngài Walker,” sinh vật đầu tiên nói. “Bên cạnh tôi là ngài Archer. Tôi phục vụ ma cà rồng quyền năng nhất thành phố New York. Thủ lĩnh của nhóm mạnh nhất Manhattan.”
“Raphael Santiago,” Isabelle nói. “Vậy thì hai người nên biết Simon không thuộc nhóm nào. Cậu ấy là ma cà rồng tự do.”


Ngài Walker cười mím môi. “Chủ nhân của tôi hy vọng tình thế đó có thể thay đổi.”
Simon nhìn Isabelle. Cô nhún vai.
“Không phải Raphael đã nói với cậu rằng anh ta muốn cậu tránh xa nhóm đó ra sao?”


“Có thể anh ta đổi ý,” Simon gợi ý. “Cậu biết anh ấy rồi đấy. Kiểu người sáng nắng chiều mưa trưa ẩm ướt ấy mà.”
“Mình đâu có biết. Mình chưa thật sự gặp anh ta kể từ hồi mình dọa giết anh ta bằng cái chân cắm nến. Nhưng anh ta cũng đối mặt với chuyện đó. Chẳng hề chớp mắt.”


“Tuyệt,” Simon nói. Hai tay người kí sinh đang nhìn cậu. Đôi mắt họ mang màu xám trắng nhạt, giống như màu tuyết bẩn vậy.
“Nếu Raphael muốn có tôi trong nhóm thì đó là vì anh ta muốn gì đó từ tôi. Hai người nên nói cho tôi biết đó là gì thì hơn.”


“Chúng tôi không được phép tiết lộ các kế hoạch của chủ nhân,” Ngài Archer nói bằng giọng rất ư trịch thượng.
“Vậy thì chẳng thỏa thuận gì hết,” Simon nói. “Tôi không đi.”
“Nếu cậu không đồng ý đi với chúng tôi, chúng tôi đành phải dùng bạo lực với cậu.”


Con dao dường như nhảy lên tay Isabelle; hay ít nhất, cô nàng gần như chẳng nhúc nhích mà bằng cách nào đó vẫn cầm được nó. Cô nàng nhẹ nhàng xoay nó trong tay. “Nếu tôi là hai người, tôi sẽ không làm vậy.”


Ngài Archer nhe răng với cô nàng. “Từ khi nào mà Đứa Con của Thiên Thần lại trở thành vệ sĩ cho một cư dân Thế Giới Ngầm cà chớn thế nhỉ? Tôi không nghĩ đây là việc của cô đâu, Isabelle Lightwood ạ.”


“Tôi không phải vệ sĩ,” Isabelle nói. “Tôi là bạn gái của cậu ấy. Vì thế, tôi có quyền đá mông các người nếu các người làm phiền cậu ấy. Thế có được không?”


Bạn gái? Simon giật mình ngạc nhiên nhìn cô, nhưng cô chỉ gườm gườm nhìn hai sinh vật kia, đôi mắt đen lóe sáng. Cậu chưa bao giờ nghĩ Isabelle sẽ tự xưng là bạn gái cậu. Và kì lạ là, đó mới là điều làm cậu giật mình thảng thốt, chứ không phải chuyện bị một ma cà rồng quyền năng nhất New York triệu tập.


“Chủ nhân của tôi,” ngài Walker nói bằng giọng có lẽ là để xoa dịu tình hình, “có một thỏa thuận với Ma cà rồng Ưa sáng đây-”
“Tên cậu ấy là Simon. Simon Lewis.”


“Với ngài Lewis. Tôi có thể hứa với cô rằng ngài Lewis sẽ thấy đó là một thỏa thuận rất hời nếu chịu đi cùng chúng tôi và nghe chủ nhân của chúng tôi trình bày. Tôi hứa trên danh dự của chủ nhân tôi rằng, Ma cà rồng Ưa sáng, sẽ không bị tổn hại gì, và nếu cậu muốn từ chối đề nghị của chủ nhân tôi, đó là tùy cậu.”


Chủ nhân của tôi, chủ nhân của tôi. Ngài Walker nói cụm từ đó với giọng vừa ngưỡng mộ vừa kính trọng. Simon hơi rùng mình. Thật kinh khủng khi bị ràng buộc với một ai khác tới mức đó và không hề có ý chí của riêng mình.


Isabelle đang lắc đầu; cô đang mở khẩu hình nói “không” với Simon. Có lẽ cô đúng, cậu nghĩ. Isabelle là Thợ Săn Bóng Tối xuất sắc. Cô đã săn đuổi lũ ác quỷ và những cư dân Thế Giới Ngầm phạm Luật - những ma cà chớp, những pháp sư hắc ám, những người sói bị mất kiểm soát và ăn thịt người - từ khi mới mười hai tuổi, và có lẽ giỏi hơn bất cứ Thợ Săn Bóng Tối nào cùng trang lứa, ngoại trừ ông anh Jace ra. Và kém hơn Sebastian nữa, Simon nghĩ, vì hắn ta giỏi hơn cả hai anh em họ. Nhưng hắn ta đã đi đời nhà ma rồi.






Truyện liên quan