Chương 5 : Người cầm can gỗ mun

Trên đường phố Risa-Wanlat, trước hàng vào nhà số 8 là nhóm người gồm ông phó phòng Vơbe, ông chánh thanh tr.a Anxơmi, viên cai Madơru, ba viên thanh tr.a và viên cẩm trưởng đồn cảnh sát Nơi-Y. Madơru canh gác đường Madrit là phía Đông Luy phải đi tới. Anh bắt đầu ngạc nhiên vì từ lúc trao đổi dây nói đã nửa giờ rồi mà chưa thấy ông thầy đâu và anh cũng không biết viện lý do gì để trì hoãn việc bắt bớ.


Phó phòng Vơbe nói: "Đã đến lúc làm việc rồi - Chị người nhà ở cửa sổ vừa ra hiệu là tên kia đang mặc quận áo ».
Madơru có ý kiến: « Sao không để lúc nó ra thì tóm ? Nháy mắt là xong chứ gì !"


— Nhỡ nó chuồn bằng một lối khác mà ta không biết thì sao ? Ta phải cảnh giác với quân này. Ta cứ xông vào hang ổ mà bắt. Như thế chắc chắn hơn !
— Tuy nhiên...


— Anh làm sao thế. Madơru ? — Phó phòng Vơbe gọi riêng Madơru và hỏi — Anh không thấy những người của ta đều nôn nóng hay sao ? Họ sợ nó biến mất, nên tốt nhất là cứ để họ xông vào như bắt con thú dữ. Vả lại ta nên làm cho xong gọn trước khi ông quận trưởng tới.


— Ông quận trưởng sẽ đến à ?
Đến ! Ông ấy muốn đích thân chứng kiến. Vụ này làm ông ấy bận tâm đến tột đỉnh. Cho nên, nào ! Anh em sẵn sàng cả chứ ? Tiến lên ! Ta bấm chuông đây. này !


Tiếng chuông kêu vang. Chị người nhà chạy ra và hé mở cửa. Mặc dù đã có lệnh phải hết sức êm ả để khỏi đánh động địch thủ, nhưng do lo lắng và nôn nóng nên các cảnh binh ồn ào ùa vào sân, sẵn sàng cuộc chiến... Nhưng bỗng cửa sổ mở ra và có người kêu ở trên tầng gác hai: « có chuyện gì thế ? ».




Phó phòng Vơbe không trả lời. Hai cảnh binh, ông chánh thanh tra, viên cẩm và Vơbe tràn vào trong nhà. Còn hai người ở ngoài sân để không ai trốn thoát được.


Cuộc chạm trán xảy ra ở tầng gác một. Người kia đi xuống, quần áo đàng hoàng, đầu đội mũ. Phó phòng hét lên: «Đứng lại ! Cấm động đậy ! Có phải anh là Huybe-Lô-chiê không ?».


Người kia chững lại. Năm họng súng chĩa vào anh ta. Nhưng nét mặt không tỏ ra sợ hãi, anh ta bình tĩnh hỏi: «Thưa ông, ông cần gì ? Các ông đến đây làm gì ?


— Chúng tôi nhân danh pháp luật đến đây. Đây, lệnh bắt anh đây !
— Lệnh bắt tôi ?
— Bắt tên Huybe-Lôchiê, ngụ tại số 8 phố Risa- Wanlat.


— Thật là phi lý ! Không tưởng tượng nổi ! Thế là nghĩa lý gì ? Bắt vì lý do gì ?


Anh ta không chống đối gì khi người nắm tay, đưa vào một gian khá rộng, vẻn vẹn chỉ có 3 ghế rơm, một ghế tựa và một cái bàn trên là một đống sách lớn.


Phó phòng nói: Ở đây. Cấm động đậy ! Nếu động đậy thì đừng trách !


Anh ta bị nắm cổ áo nhưng không chống cự, mà có vẻ suy nghĩ, hình như đang tìm hiểu vì lý do bí mật nào mà anh bị bắt đột ngột như thế. Anh ta có bộ mặt thông minh, chòm râu đẹp óng ánh màu nâu hung, cặp mắt xanh lơ xám sau cặp kính đôi lúc tỏ ra cứng cỏi. Đỏi vai rộng, cổ to, tỏ ra có sức khỏe.


Madơru hỏi quận phó: «Trói hắn lại chứ ạ ?».
— Tí nữa. Ông quận trưởng đến kia. Tôi nghe thấy tiếng... Anh đã khám kỹ các túi ? Không có vũ khí chứ ?
— Thưa không.


— Không có chai, lọ ? Không có cái gì đáng nghi ?
— Thưa, không có gì cả.


Ông Đetmaliông vừa đến là quan sát ngay nét mặt người bị bắt, nói chuyện nhỏ với quận phó, và bắt tường thuật lại những việc đã tiến hành. Ông nói:


- Việc tiến hành tốt đấy ! Hai tên đồng bọn bị bắt. Bắt chúng phải mở miệng, và tất cả sẽ được sáng tỏ. Như vậy, là tên này không chống cự gì cả ?.
— Vâng. Thưa ông quận trưởng, nó không hề chống cự.


— Càng hay. Nhưng chúng ta vẫn phải coi chừng cẩn thận !


Người bị vây bắt vẫn không nói một lời và vẫn giữ vẻ mặt như suy nghĩ về những sự việc xảy ra chưa được giải thích. Nhưng khi biết người mới đến chính là ông quận trưởng thì anh ta ngẩng đầu lên và khi ông Đetmaliông hỏi: «Hẳn không cần phải nói rõ lý do vì sao anh bị bắt chứ ? », thì anh từ tốn trả lời: «Thưa ông quận trưởng ! xin ông tha lỗi cho tôi vì trái lại tôi vẫn mong muốn được giải thích rõ. Tôi không hiểu một chút gì về việc này. Có lẽ những thuộc hạ của ông đã phạm một sai lầm nghiêm trọng mà chỉ cần một lời của ông là đủ làm sáng tỏ. Lời đó... Tôi đề nghị, tôi khẩn thiết đề nghị..".».


Ông quận trưởng nhún vai và nói: «Anh bị tình nghi đã tham gia vào vụ ám sát ông kỹ sư Fauvin và Etmông, con trai ông ta».
— Sao ? Hippôlit ch.ết rồi ư ?
Anh ta nhắc lại, với giọng nói khàn đi và run run vì bị kích thích:


- Hippôlit ch.ết ! Ông nói ai vậy ? Hippôlit ch.ết thật ư ? ch.ết như thế nào ? Bị ám sát ? Và cả Etmông nữa ?».


Ông quận trưởng lại nhún vai: «Chỉ cái việc anh gọi ông Fauvin bằng tên riêng đủ chứng tỏ anh thân, với ông ấy. Và cho rằng anh không liên quan gì đến việc ám sát ông ấy, thì anh đọc báo hàng ngày từ 15 hôm nay tất nhiên cũng phải biết tin ấy chứ ?”.


— Thưa ông quận trưởng, tôi không hề đọc báo hàng ngày bao giờ.
— Hừ ! Có nghĩa là anh..


— Ông không tin như vậy, nhưng thưa ông, tôi nói rất thành thực. Cuộc sống của tôi chỉ có làm việc. Tôi đặc biệt ham mê tìm tòi khoa học để viết một tài liệu đưa ra truyền bá, không chú ý, không tham gia một tí gì về công việc ngoài xã hội. Tôi giám thách bất kỳ người nào nói là đã thấy tôi đọc một tờ báo trong vòng bao nhiêu tháng trở lại đây cũng được. Cho nên tôi có quyền nói là hoàn toàn không biết gì về vụ ám sát Hippôlit Fauvin. Trước kia tôi có giao thiệp với ông ấy, nhưng đã từ lâu chúng tôi giận nhau.


— Giận nhau vì lý do gì ?
— Vì chuyện trong gia đình.
— Chuyện gia đình ! Hai người có họ với nhau à ?
- Vâng, ông Fauvin là anh họ tôi.


— Anh họ anh ? Ông Fauvin là anh họ anh ? Nhưng... Nào ! Hãy nói rõ thêm: ông Fauvin và vợ ông ấy là hai người con của hai chị em, bà Êlidabet Rutxen và bà Amăng Rutxen. Hai bà ấy được nuôi dưỡng cùng với một người em họ tên là Vichto.


— Vâng. Vichto-Xôvơvăng đi nước ngoài rồi lấy vợ và có hai con. Một người ch.ết đã được 15 năm. Còn người nữa chính là tôi.


Ông Đetmaliông rùng mình. Rõ ràng là ông bị xúc động. Nếu người này nói đúng sự thật, nếu thực hắn là con trai của Vichto là người mà cơ quan an ninh chưa lập lại được hồ sơ nhân sự, thì bắt hắn vẫn cứ đúng, vì ông Fauvin và con trai đã ch.ết, và bà Fauvin đã được dẫn chứng chắc chắn dính líu trong vụ ám sát, bị truất hết quyền. Vậy nay người mà ta bắt được, là người mặc nhiên thừa kế chính thức gia tài Cốtmô— Moocninhtôn. Nhưng hắn bị cái gì ám ảnh mà lại tự khai ra một điều tối nghiêm trọng như vậy ?


— Thưa ông quận trưởng —Madơru nói — Ta cần phải cảnh giác. Bây giờ nó bị bắt thì nó giả vờ như vậy, nhưng phải coi chừng lúc nó quật lại.


Phó phòng Vơbe mới chạy ra ngoài mấy phút, nay trở vào. Ông Đetmaliông hỏi: «sẵn sàng cả rồi chứ ?».
— Vâng, thưa quận trưởng ! Tôi đã cho xe tắc-xi đậu sát vào, bên cạnh xe hơi của ông.


— Các anh có bao nhiêu người tất cả ?
— Tám, vì mới được bổ sung hai cảnh binh từ sở cẩm đến.
— Đã khám xét kỹ trong nhà ?


— Vâng đã khám kỹ. Vả lại nhà hầu như trống rỗng, chỉ có mấy cái bàn ghế tối cần thiết, và một mớ giấy má.
— Được ! Bây giờ đem nó đi và tăng cường việc giám sát theo dõi.


Gattông-Xôvơrăng ngoan ngoãn đi theo quận phó và Madơru. Đến ngưỡng cửa anh ta quay lại: «Thưa ông quận trưởng ! ông đã cho khám xét rồi, vậy tôi thiết tha đề nghị ông giữ gìn cẩn thận những giấy má lộn xộn trên bàn, trong buồng tôi. Đó là những thành quả quí báu mà tôi đã tốn bao nhiêu đêm ngày. Ngoài ra...».


Anh ta ngập ngìrng, rõ vàng có vẻ lủng túng.
— Ngoài ra thì sao ?
— Dạ, thưa ông quân trưởng, để tôi xin nói... Có những...


Anh ta tìm những lời thích hợp để khỏi gây hậu quả xấu. Nhưng rồi đột nhiên, quả quyết nói: «Thưa ông quận trưởng ! Tôi có một gói thư từ mà tôi giữ gìn hơn tính mạng của tôi. Những thứ ấy nếu người ta hiểu theo một nghĩa bị xuyên tạc thì sẽ trở thành những vũ khí chống lại tôi... Cho nên... Cho nên trước hết những thư đó phải được bảo vệ... Rồi ông sẽ thấy... Đó là những tài liệu vô cùng quan trọng... Tôi xin giao cho ông và, thưa ông quận trưởng, chỉ giao cho ông thôi.


— Những thứ ấy để ở đâu ?


— Dạ, cất ở một chỗ cũng dễ tìm. Chỉ cần trèo lên gian buồng nhỏ, ở phía trên đầu tôi đây. Sẽ thấy bên phải cửa sổ có một cái đinh. Vâng, một cái đinh trông tưởng như vô ích, nhưng ấn vào nó thì nó sẽ điều khiển mở cho ta thấy chỗ cất giấu, ở bên ngoài, dưới một viên ngói đá đen sát mép máng.


Nói xong anh ta toan đi tiếp, vẫn có hai người kèm hai bên. Nhưng ông quận trưởng giữ họ lại:
- Khoan một chút ! Madơru ! Anh lên gian xép, làm theo lời hướng dẫn, lấy gói thư xuống đây.


Madơru tuân lệnh. Mấy phút sau anh trở xuống vì không làm cho bộ máy hoạt động đưọc.


Ông quận trưởng ra lệnh cho ông chánh thanh tr.a Anxơny cùng lên với Mađơru và dẫn người bị bắt lên theo để hướng dẫn cách mở chỗ giấu.


Ông ở lại gian phòng cùng với phó phòng Vơbe, chờ kết quả. Ông xem xét những đầu đề tên các cuốn sách chồng trên bàn. Đó là những cuốn sách dày về khoa học, trong đó có những tác phẩm về hóa học, hóa hữu cơ, mối liên quan giữa hóa và điện. Các sách đều có đầy chữ ghi chú bằng tay ở ngoài lề. Ông bắt đầu giở một cuốn ra xem thì bỗng nghe như có tiếng ồn ào. Ông chạy vội ra, nhưng chưa bước khỏi ngưỡng cửa thì nghe một tiếng nổ ở gầm cầu thang và tiếng kêu thét đau đớn. Ngay sau đó hai tiếng nổ tiếp theo. Rồi những tiếng kêu, tiếng vật lộn, rồi lại một tiếng nổ.


Nhanh nhẹn không ngờ đối với tầm vóc người như ông, ông quận trưởng nhảy bốn bậc một lần cầu thang có phó phòng Vơ-be theo sau. Qua tầng gác hai đến tầng gác ba, nhỏ hơn và chênh vênh hơn. Khi tới chỗ vòng cầu thang, một người loạng choạng trước mặt ông và ngã vào đôi cánh tay ông: đó là Madơru bị thương. Trên bậc cầu thang nằm xoài một người nữa, không cử động: ông chánh thanh tr.a Anxơny. Trên gác, giữa một khung cửa đi nhỏ, Gattông-Xôvơrăng đứng đó, dữ tợn, hung hãn, thẳng tay giương súng. Hắn bắn hú họa một phát thứ năm. Và khi nhìn thấy ông quận trưởng cảnh sát, hắn từ từ ngắm, rất chính xác, chĩa họng súng vào ông.


Ông quận trường kinh khủng nhìn họng súng chĩa vào mình, cảm thấy không sao thoát khỏi... Nhưng đúng ở giây phút rất chính xác ấy, một tiếng nổ ở phía sau ông vang lên, Xôvơrăng chưa kịp bắn thì súng đã rơi khỏi lay. Và ông quận trưởng nhìn thấy, như quỉ thần xuất hiện, con người vừa cứu ông thoát ch.ết bước qua người viên chánh thanh tra, đẩy Madơru sát vào tường, và lao tới, theo sau là các cảnh binh. Ông nhận ra ngay người đó: chính là Đông Luy-Perenna. Đông Luy chạy vội vào trong gian xếp, nơi mà Xôvơrăng đã lăn vào. Nhưng anh chỉ còn kịp trông thấy hắn đứng trên thành cửa sổ của gác xép tầng ba, nhảy ra ngoài trời.


Ông quận trưởng vừa chạy tới, thấy thế, kêu lên: «Nó nhảy từ đây xuống à ? Thế thì khi ta tóm được nó, nó đã ch.ết quách mất rồi !».


— Nó có ch.ết đâu ? Thưa ông quận trưởng. Ông xem nó đang đứng dậy kia kìa ! Quân này chứ như có phép lạ !.. Nó chạy về phía vào... Nó chỉ hơi khập khiễng.
— Những thuộc hạ của tôi đâu cả ?


—Hơ ! Họ đều chạy vào nhà, đứng ở cầu thang, vì họ nghe trong này có tiếng nổ. Họ đang cấp cứu những người bị thương...,
Ông quận trưởng lầm bầm: «chà, thằng quỉ ! Nó hoàn toàn chủ động trong nước cờ !».


Đúng thế thật !. Gallông-Xôvơrăng chạy trốn mà không bị ai cản trở.


Ông Đetmaliông hét: «Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó !”. Dọc mép hè phố, chỗ này rất rộng, có hai ô-tô đỗ. Một xe của ông quận trưởng, một xe do phó phòng Vơbe mới điều đến để chuyển tù nhân. Hai anh lái xe ngồi trong xe, không biết gì về chuyện đã xảy ra. Nhưng họ trông thấy Gattông-X ôvơrăng nhảy từ trên gác ba xuống. Thấy thế, anh lái xe của ông quận trưởng vội vớ lấy can gỗ mun trong đống tang vật để trong xe, và chạy tới phía trước kẻ đang chạy trốn.


Ông quận trưởng lại hét: « Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó !»


Hai địch thủ chạm trán ngay ở cửa sân. Việc diễn biến nhanh. Xôvơrăng nhảy vào anh lái xe, giằng lấy cái can, nhảy lùi một bước, quật cái can vào mặt đối thủ. Rồi tay vẫn nắm chắc cái can, hắn chạy trốn. Ba cảnh binh vừa ở trong nhà chạy ra, cùng với anh lái xe ở kia, ùa đuổi theo. Tên kia chạy trước độ 30 bước. Một cảnh binh bắn mấy phát nhưng không trúng.


Khi ông quận trưởng cùng với quận phó Vơbe đi trở xuống thì thấy ở tầng gác hai, trong buồng của Gattông-Xôvơrăng, viên chánh viên thanh tr.a nằm trên giường, mặt tái nhợt bị bắn trúng đầu, ông ta đang hấp hối. Một lát sau thì ch.ết hẳn.


Cai Madơru chỉ bị thương nhẹ. Trong khi người ta băng bó cho anh, anh thuật lại là Xôvơrăng đã dẫn anh và ông chánh thanh tr.a lên tới gian gác xép. Hắn thọc tay nhanh vào một cái túi da treo trên tường trước cửa đi, rút ra một khẩu súng ngắn và nổ luôn vào ông chánh thanh tra. Ông ngã quay xuống sàn. Bị Madơru nắm chặt tay, tên sát nhân vùng ra, bắn ba phát, một phát trúng vào vai viên cai.


Như vậy là trong trận giáp lá cà, một bên là lực lượng cảnh sát có đủ người giỏi, trang bị tốt, đã bị bên kia là một kẻ thù đơn độc, dùng mưu trí và dũng cảm phi thường, gạt được hai đối thủ ra ngoài vòng chiến đấu, nhử được các đối thủ khác vào trong nhà mở con dường tự do, biến mất !


Ông Đetmaliông tái người vì tức giận và thất vọng. Ông kêu lên: «Nó đã đưa chúng ta vào tròng ! Những bức thư, chỗ cất giấu, cái đinh thổ tả... Toàn chuyện lừa gạt ! A ! quân kẻ cướp ».


Ông xuống tầng dưới nhà, đi qua sân. Trên đường phố ông gặp một trong số cảnh binh đi săn lùng tên sát nhân về, mệt bở hơi tai. Ông lo lắng, hỏi: “Thế nào ?”


— Thưa ông quận trưởng, nó chạy quặt sang phố bên cạnh... Ở đó có một ô tô chờ sẵn... Hẳn là xe đã mồi sẵn nên nó biến rất nhanh, bỏ xa chúng tôi.
— Thế xe của tôi ?


— Thưa ông quận trưởng ! Vâng, nhưng xin ông lượng xét ! Thời gian nổ được máy cho xe chạy...
— Cái xe kia là một xe thuê ?
— Vâng. Một xe tắc-xi...


— Thế thì sẽ tìm ra. Bản thân người lái xe sẽ đến trình chúng ta khi đọc tin tức ở các báo chí...


Vơbe nhún vai: «Vâng, nếu tên lái xe không phải là đồng bọn với tên kia. Mà dù có tìm ra cái xe kia, thì một đối thủ như thằng Xêvơrăng dễ nó không biết tìm cách tạo ra vết tích giả để đánh lạc hướng ! Vụ này khó khăn gay go đối với chúng ta đấy, thưa ông quận trưởng”.


Đông Luy, từ nãy vẫn im lặng trước cuộc thảo luận và vẫn đứng riêng với Madơru, lúc này mới lên tiếng: «Vâng, khó khăn gay go đấy ! Nhất là khi ta để xổng mất những tên mà chúng ta nắm được. Này, Madơru, có đúng như tôi đã nói với anh tối hôm qua không ? Nhưng thực ra tên kẻ cướp này cũng gớm thật ! Mà không phải nó chỉ có một mình, Alếchdăng nhé ! Ta bảo đảm là nó còn có nhiều tên đồng lõa, mà chúng không xa nhà ta ở đâu ! Anh nghe không ? Ở ngay trong nhà ta đó !».


Sau khi hỏi Madơru về thái độ của Xôvơrăng và về tình tiết của việc bắt bớ, Đông Luy trở về khách sạn quảng trường cung điện Buốc-Bông.


Trong cuộc điều tr.a mà anh phải tiến hành có những sự kiện thật là kì lạ. Ván cờ mà Gattông - Xôvơrăng đang chơi trong việc đeo đuổi cái gia tài Cốtmô — Moocninhtôn đã đáng làm cho anh phải chú ý. Lại đến thái độ hành động của cô Lơvatxơ cũng làm anh lo lắng không kém. Anh không thể quên tiếng kêu khiếp sợ của cô ta trong khi anh nói chuyện điện thoại với Madơru. Anh cũng không thể nào quên nét mặt khủng khiếp sợ hãi của cô ta. Rõ ràng tiếng kêu ấy và nét mặt ấy là do câu anh trả lời Madơru: «Sao ? Anh nói sao ? Bà Fauvin định tự sát à ?». Rõ ràng giữa câu hỏi ấy và thái độ đặc biệt của cô ta có liên quan chặt chẽ với nhau, không cần phải tìm hiểu gì nữa mới kết luận được.


Anh vào thẳng văn phòng và xem xét ngay cái lỗ hổng ở tường mở sang buồng điện thoại. Lỗ hổng này hình vòm, rộng độ 2 mét, rất thấp và chỉ che bằng một tấm nhung. Tấm này thường vén lên, để hở lỗ hổng. Dưới tấm nhung trong những đường gờ phía đáy lỗ hổng, Đông Luy thấy một nút bấm. Chỉ cần ấn nút đó là hạ xuống, nâng lên tấm màn sắt đã sập xuống sát anh cách đây hai tiếng đồng hồ. Anh thử đi thử lại ba bốn lần và thấy rất rõ là bộ máy rất hoàn hảo, nếu không có người ấn nút thì tấm màn không khi nào tự nhiên sập xuống. Vậy liệu anh có thể kết luận được rằng người phụ nữ cố ý muốn giết anh không ? Nhưng vì lý do gì ?


Anh đã toan bấm chuông gọi cô ta đến để chất vấn, yêu cầu giải thích. Nhưng anh kìm lại. Nhìn qua cửa sổ anh thấy cô ta đi qua sân. Cô có dáng đi thanh thản, nhịp nhàng, hài hòa. Ánh nắng làm mái tóc của cô óng ánh vàng.


Cho đến hết buổi sáng anh nằm trên đi văng, hút xì gà... Anh khó chịu, tự không bằng lòng với mình và bực tức vì những sự kiện đã tiếp diễn, không một sự kiện nào đem lại chút ánh sáng cho sự thật; trái lại làm tối mò thêm cái màn đêm tối mà anh đang lần quần ở trong. Rất ham hành động nhưng cứ hành động thì lại gặp những trở ngại thêm, không có điểm nào giúp cho anh nắm được tông tích những đối thủ đã gây ra những trở ngại đó.


Nhưng đến trưa, anh vừa báo dọn bữa ăn, thì người quản lý khách sạn vào văn phòng anh, tay bưng khay, và hối hả nói với anh bằng một dáng điệu chứng tỏ mọi người trong khách sạn đều biết anh đang ở trong tình thế khó xử:


«Thưa ông, ông quận trưởng đến».
Perenna thảng thốt: «Hử ? Ông ấy ở đâu ?»
— Thưa ông, ông ấy ở dưới nhà. Lúc đầu tôi không biết... Tôi định báo cô Lơvatxơ. Nhưng...
— Chắc chắn là ông ta ư ?


— Vâng. Có danh thiếp đây thưa ông.
Đông Luy cầm danh thiếp, đọc: « GUYT-TA-VƠ ĐETMALI ÔNG ».


Anh đến bên cửa sổ, mở cửa và nhìn vào tấm gương nghiêng: trên quảng trường cung điện Buốc bông, nửa tá người đang đi đi lại lại. Anh nhận ra đó là những người canh gác thường xuyên, những người mà anh đã «tống khứ » đêm hôm qua, nay trở lại nhận phiên gác. Anh tự nhủ: «có ngần ấy người thôi ư ? Thế thì chả có gì đáng sợ. Hẳn ông quận trưởng cũng phải có ý nghĩ tốt đối với mình, nhất là mình lại vừa mới cứu ông ấy thoát ch.ết».


Ông Đetmaliông vào, không nói một lời nào, ông chỉ hơi nghiêng đầu, coi như một dấu hiệu chào. Vơbe đi theo ông thì không cần giấu bộ mặt ác cảm vốn có đối với Perenna... Đông Luy cố làm như không nhận thấy điều đó và cũng cố ý chỉ đẩy ra một cái ghế tựa. Nhưng ông Đetmaliông đi đi lại lại trong phòng, tay chắp sau lưng như đang đeo đuổi một ý nghĩ trước khi bắt đầu ngỏ lời.


Im lặng kéo dài. Đông Luy bình tĩnh chờ. Đột nhiên ông quận trưởng đứng lại và hỏi: «Khi ông rời phố Risa—Wanlat ông có về thẳng ngay nhà không, thưa ông ?


Đông Luy chấp nhận kiểu nói chuyện bằng cách thẩm vấn như thế và đáp:
- Tôi về thẳng nhà, thưa ông quận trưởng !
— Về thẳng phòng làm việc này.


Ông Đetmaliông ngừng một chút và nói tiếp: «Tôi đi sau ông độ 30 hay 40 phút. Ô tô đưa tôi về quận. Tại quận tôi nhận được bức thư sau đây, mà ông có thể xem. Ông sẽ nhận thấy là thư đã được đưa tới nơi vào lúc 9 giờ rưỡi”.


Đông Luy cầm lá thư chữ viết toàn bằng chữ họa đọc như sau:


"Xin báo ông rõ là Gattông — Xôvơrăng sau khi chạy trốn, đã gặp lại tên đồng lõa là Perenna mà ông đã biết chính là Acxen—Luypanh. AcxenLuypanh đã cho ông biết chỗ ở của Xôvơrăng để ông khử nó đi. Như vậy Acxen—Luypanh sẽ thừa hưởng gia tài Moocninhtôn. Nhưng sáng hôm nay chúng đã làm lành với nhau. Acxen—Luypanh tạo cho Xôvơrăng một nơi ẩn trốn rất chắc chắn. Bằng chứng của việc chúng gặp nhau và đồng lõa với nhau cũng dễ có. Để giao ước, Xôvơrăng đã giao Acxen—Luypanh một đoạn can gỗ mun. Ông sẽ thấy đoạn can đó để dưới gối trên cái đi văng kê giữa hai cửa sổ phòng làm việc của Perenna.


Đông Luy nhún vai. Lời lẽ trong thư thật là mơ hồ vì không lúc nào anh rời khỏi làm việc. Anh bình thản gấp lá thư, trả lại ông quận trưởng, không có ý kiến gì. Anh muốn để ông Đetmaliông chủ động trong cuộc nói chuyện.


Ông Đetmaliông hỏi: «Ông nghĩ thế nào về lời tố giác này ?».
— Tôi không nghĩ thế nào cả, thưa ông quận trưởng.
—Tuy nhiên lời trong thư rất rõ ràng và cũng dễ kiểm tra.


— Vâng, thưa ông rất dễ. Kia ! Ở giữa hai cửa sổ là cái đi văng.
Ông Đetmaliông yên lặng mấy giây, rồi ông đến đi văng, lật các gối lên. Dưới một cái gối, đoạn can gỗ mun hiện ra.


Đông Luy không giấu nổi một cử chỉ kinh ngạc và giận dữ. Anh không hề ngờ tới khả năng kỳ quặc như vậy. Anh hoàn toàn bị hẫng. Nhưng anh tự kềm chế và nghĩ: «Chưa có cái gì chứng tỏ đoạn can này đúng là thuộc cái can trong tay Xôvơrăng".


Như để trả lời ý nghĩ của anh, ông Đetmaliông nói: « Tôi có đoạn can kia ở đây. Tên Xôvơrăng đã bỏ lại, và chính ông Vơbe đã nhặt được trên đường Risa-Wanlat».


Ông rút đoạn can ở túi trong áo khoác ra, và đối chiếu. Hai chỗ gãy rất khớp với nhau.


Lại một lúc im lặng. Perenna bối rối. Làn này anh lại cũng bị thất bại nhục nhã. Anh không hiểu nổi sao chỉ trong vòng 20 phút mà Xôvơrăng lại có thể tới ngôi nhà này, vào phòng này được ? Chỉ có giả thiết có một tên đồng lõa ngay tại ngôi nhà này thì còn có thể giải thích được hiện tượng. Anh nghĩ: Sự kiện làm đảo lộn mọi dự kiến của ta. Ta phải tìm mọi cách đi ra được. Ta đã thoát khỏi sự tố cáo của bà Fauvin về viên ngọc thạch mờ. Nhưng liệu lần này ông Đetmaliông có tin rằng đây cũng là một mưu đồ tương tự của Xôvơrăng, làm cho ta bị tình nghi, bị bắt, để bó tay ta không ?


Ông quận trưởng sốt ruột kêu lên: - Thế nào ? ông trả lời đi chứ ! Ông tự bào chữa đi chứ !
— Thưa ông quận trưởng, tôi không tự bào chữa.


Ông quận trưởng giậm chân, la lên: «Như thế... như thế là ông đã nhận... Thế thì...».
Ông nắm nắm đấm cánh cửa sổ, sắp định mở, chỉ cần một tiếng còi, các cảnh binh sẽ ùa vào, việc sẽ dứt điểm.


Đông Luy hỏi: «Có cần cho gọi các viên thanh tr.a của ông không ?».


Ông Đetmaliông không nói gì, tay buông quả đấm cửa sổ, lại đi đi lại lại trong phòng. Đông Luy đang tìm hiểu vì sao mà ông rất lưỡng lự như vậy, thì đột nhiên ông đứng lại trước mặt Đông Luy và nói: "Nếu tôi coi sự việc đoạn can gỗ mun là phi lí, hay nói đúng hơn, tôi coi đó là mưu mô của một tên người nhà đã phản bội ông. Nếu tôi đánh giá những công việc mà ông đã giúp đỡ chúng tôi là đáng kể... Tóm lại, nếu tôi để cho ông được tự do ?".


Perenna không giữ được nụ cười. Tuy xảy ra sự kiện cái can gỗ mun, tuy mọi tình huống đều quy tội vào anh, mọi việc đang biến diễn xấu đối với anh nhưng nay lại trở lại theo hướng như anh đã dự kiến trước, như anh đã nói với Madơru trong buổi đang điều tr.a ở phố Xuyt-sê người ta phải cần đến anh. Anh hỏi:


- Tự do ? Nghĩa là không ai canh gác, không ai bám sát tôi nữa ạ ?
— Không ai.


— Nếu báo chí vẫn cứ tiếp tục chiến dịch đả kích tôi, phao lên tin này, chuyện nọ, lợi dụng những trùng hợp ngẫu nhiên, làm dấy lên dư luận đòi hỏi có những biện pháp đối với tôi ?


— Những biện pháp đó sẽ không được thực hiện.
— Tôi không còn gì đáng lo ngại nữa ?
— Không !
— Ông Vơbe sẽ không giữ mối ác cảm với tôi nữa ?


— Ông ấy sẽ hành động coi như không có ác cảm ... Phải không, ông Vơbe ?.
Phó phòng Vơbe hừ hừ mấy tiếng, coi như có nghĩa là bất đắc dĩ phải chấp nhận.


Đông Luy lớn liếng trả lời: "Nếu thế thì, thưa ông quận trưởng ! Tôi đảm bảo sẽ mang lại thắng lợi, thắng lợi cần thiết theo đúng yêu cầu của luật pháp».


Thế là tình hình biến chuyển quay ngoắt. Sau một loạt sư kiện và tình huống đặc biệt, bản thân lực lượng cảnh sát phục tài kì diệu của Đông Luy Pereann, đánh giá cao kết quả những việc mà Đông Luy đã làm và biết trước những thắng lợi mà Đông Luy sẽ đem về trong công việc tương lai, đã quyết định ủng hộ anh, yêu cầu sự hỗ trợ của anh và có thể nói là đã trao cho anh quyền điều hành mọi công việc.


Cách giải quyết của ông quận trưởng thật là thú vị ! Thái độ của ông phải chăng chỉ là riêng đối với Đông Luy Perenna ? Còn Luypanh đáng gờm, Luypanh vô địch có quyền được đòi hỏi gì không ? Ai biết được rằng ông Đetmaliông trong thâm tâm không hay có phân biệt lai lịch của hai nhân vật ?


Thái độ bên ngoài của ông quận trưởng không hề lộ ý nghĩ thầm kín của ông. Ông ký với Đông Luy Perenna một kiểu hiệp ước mà luật pháp thường phải dùng để đạt được mục đích. Hiệp ước thế là đã ký kết, không sợ có lật lại vấn đề.


Ông Đetmaliông hỏi: «Ông có cần hỏi tôi vấn đề gì nữa không ?»


— Dạ có, thưa ông quận trưởng. Các báo có nói đến một quyển sổ tay tìm thấy trong túi của ông thanh tr.a Vêrô đáng thương, chẳng hay trong cuốn sổ tay có ghi chép điều gì hữu ích không ?


— Không. Toàn là những việc riêng của cá nhân, như các khoản chi tiêu... À, tôi quên ! Trong sổ còn có một tấm ảnh, nhưng chẳng giúp ích gì cho tôi... Tôi nghĩ nó không liên quan đến vụ này nên không đưa ra các báo chí. Tấm ảnh đây !


Anh cầm tấm ảnh và nhìn. Anh thảng thốt rùng mình, cử chỉ ấy không lọt qua mắt ông Đetmaliông. Ông hỏi: «Ông biết người phụ nữ này à ?».


- Không... Thưa ông quận trưởng ! Tôi tưởng là... Nhưng không phải ! Chỉ hao hao giống... Một nét nào đó... mà tôi sẽ kiểm tr.a lại nếu ông cho phép tôi giữ tấm ảnh đến đêm nay.


— Được. Ông sẽ trả lại tấm ảnh cho Madơru là người, theo lệnh tôi, sẽ quan hệ với ông trong mọi công việc thuộc vấn đề Moocninhtôn.


Đến đây buổi gặp gỡ kết thúc, ông quận trưởng ra về. Đông Luy tiễn ông đến thềm, ông Đetmaliông quay lại nói nhẹ nhàng: "Sáng nay ông đã cứu sống tôi, không có ông thì tên kẻ cướp Xôvơrăng...”


— Ồ ! Thưa ông quận trưởng...


— Tôi biết ! Đó là những việc ông thường hay làm và cho là không đáng kể. Nhưng xin ông cứ nhận lời cám ơn của tôi. Và ông Đetmaliông trân trọng chào, như chào một Đông Luy Perenna, nhà quí tộc gốc Tây-ban-nha, người anh hùng của đạo quân lê-dương hải ngọại. Còn Vơbe, hai tay đút túi, đi qua với dáng con chó bị rọ mõm ném vào địch thủ một cái nhìn đầy căm tức thù hằn.


Đông Luy nghĩ thầm: «Thằng cha này, nếu có cơ hội xảy ra thì nó chẳng tha gì mình đâu ! ». Từ cửa sổ nhìn ra, anh thấy ô-tô của ông quận trưởng lăn bánh. Các cảnh binh của sở an ninh theo chân phó phòng Vơbe rút khỏi quảng trường cung điện Buốc bông. Vòng vây đã được giải tỏa.


“Nào ! Bây giờ thì ta bắt tay vào việc ! Ta toàn quyền hành động ! Sẽ biết tay ta !” Anh gọi người quản lí khách sạn: « Ông dọn bữa cho tôi. Và sau khi tôi ăn xong thì ông bảo cô Lơvatxơ qua gặp tôi ngay ».


Anh qua phòng ăn và bắt đầu ngồi vào bàn ăn. Anh đặt tấm ảnh bên anh và cúi nhìn xem xét rất kỹ. Ảnh đã hơi mờ, chắc là vì đã cất lâu trong ví, trong sổ tay, nhưng vẫn còn rõ nét. Đây là hình ảnh rực rỡ của một thiếu nữ mặc quần áo khiêu vũ, cánh tay trần, đội mũ tết hoa và lá, miệng cười tươi.


Anh lầm bầm, nhắc đi nhắc lại: «Cô Lơvatxơ, cô Lơvatxơ....Thật thế ư ?».


Ở một góc tấm ảnh có chữ đã phai mờ. Anh đọc thấy: Ph‘lôrăngxơ , chắc là tên riêng của cô ta. Anh nhắc lại: « cô Lơvatxơ... Ph’lôrăngxơ — Lơvatxơ. Sao ảnh cô ta lại ở trong ví của thanh tr.a Vêrô ? Và có mối liên quan gì giữa vụ này với cô thư ký riêng của bá tước người Rumani có ngôi nhà mà ta tiếp quản đây ?»


Anh nhớ lại sự kiện tấm màn sắt. Anh nhớ lại bài đăng trong báo Tiếng-vang là bài nhằm đả anh, mà anh nhặt được bản thảo ngay trong sân khách sạn. Và anh nhớ nhất là sự kiện độc đáo đoạn can gỗ mun nằm trong phòng làm việc của anh. Anh vừa suy nghĩ cố gắng tìm tia sáng trong những hành động của cô Lơvatxơ, vừa hờ hững ngắm nhìn những nét đẹp của người trong tấm ảnh: cái miệng, cái cười, cái cổ, đôi vai trần.


Cửa phòng bỗng mở đột ngột. Lúc ấy Đông Luy vừa đưa lên miệng một cốc đầy nước chưa kịp uống. Cô thư ký nhảy tới, nắm cánh tay anh, giựt cốc nước ra, quăng xuống sàn, vỡ tan, và hỏi bằng một giọng nghẹn ngào: « ông đã uống... ông đã uống chưa ? ».


Anh khẳng định: "Không, tôi chưa uống. Nhưng... sao vậy ? ».
Nàng nói lúng búng: «Nước trong bình... Nước trong bình...»
— Sao ?
— Nước bị bỏ thuốc độc.


Anh giật nẩy người, đứng phắt lên. Đến lượt anh nắm chặt cánh tay cô và hỏi dồn: « Có thuốc độc ? Cô nói sao ? Cô nói đi. Cô biết chắc chắn là có thuốc độc ? ».


Dù là người có đởm lược, nhưng anh cũng hết hồn. Anh biết rõ hiệu quả kinh hồn của loại thuốc độc mà bọn kẻ cướp thường dùng để giết hại đối thủ. Anh đã chứng kiến cái ch.ết của thanh tr.a Vêrô, của cha con Hippôlit— Fauvin. Anh biết rằng mặc dù anh có khả năng đề kháng cao đối với những liều thuốc độc mạnh nhưng cũng sẽ không thoát ch.ết được với cái loại thuốc độc này. Loại thuốc độc này không từ ai, nó giết ch.ết một cách chắc chắn, tàn bạo.


Cô thư kí vẫn im lặng. Anh ra lệnh: « cô trả lời tôi đi chứ ! Cô biết chắc chắn à ? ».
Cô ta chối bai bảỉ: « Không ! Tôi chỉ có cảm giác... Hình như cảm giác tình cờ...”


Người ta cảm thấy là cô đã trót lỡ lời, nay cố tìm cách chống chế.
Anh kêu lên: "Không được. Tôi muốn biết rõ... Vậy cô không dám nói chắc chắn là nước trong bình có thuốc độc ?.


— Vâng, không chắc... Có thể là...
— Nhưng lúc nãy ...
— Vâng, lúc nãy tôi tưởng... Nhưng không... không..
— Muốn biết chắc chắn cũng dễ thôi. Perenria nói và định cầm lấy bình nước.


Nhưng nàng nhanh tay hơn, đã vớ lấy cái bình và đập lên mặt bàn, vỡ tan.
Đông Luy không chịu nổi, la lên ; «Cô làm cái gì thế ?»
— Tôi lầm... Thôi chuyện này cũng chẳng đáng cho ta phải để tâm...


Rất nhanh, Đông Luy ra khỏi buồng ăn. Anh biết theo lệnh anh, nước uống là từ một bình lọc tới. Bình lọc này đặt ở một gian phụ, tại đầu hành lang đi từ nhà ăn tới nhà bếp và đi xa hơn nữa. Anh chạy tới gian phụ lấy một cái bát để trên tấm ván, hứng một ít nước ở bình lọc. Anh cầm bát nước, đi dọc hành lang, theo lối rẽ ra sân. Anh gọi con chó con Miêc-da. Con chó chạy đến. Anh đặt bát nước xuống: “này, uống đi». Con chó uống nước. Hầu như ngay tức khắc, con chó bất động, nằm thẳng cẳng, toàn thân cứng đờ. Anh rùng mình. Con chó kêu lên một tiếng khàn, lăn lộn hai ba vòng rồi quay lơ. Anh sờ vào con vật: «Nó ch.ết rồi !».


Cô Lơvatxơ cũng vừa chạy tới. Anh quay lại cô và nói sẵng: "Đúng thật ! Thuốc độc ! Cô đã biết trước. Nhưng làm sao mà cô lại biết ?.


Cô thở hổn hển, trả lời: «Tôi thấy con chó kia lúc nãy cũng uống nước trong gian phụ và nó đã ch.ết. Tôi đã báo anh lái xe và anh đánh xe ngựa... Họ đang ở chuồng ngựa... Và tôi chạy đến văn phòng để bảo ông.


— Như vậy là cô đã biết đích xác... Thế sao lúc nãy cô lại nói là không chắc chắn nước có thuốc độc. Vì sao ?


Anh lái xe và anh đánh xe ngựa ở chuồng ngựa ra. Đông Luy kéo tay cô Lơvatxơ đi và nói: « chúng ta cần phải nói chuyện với nhau. Chúng ta hãy về phòng của cô !».


Hai người trở lại chỗ ngoặt hành lang. Gần chỗ gian phụ để bình lọc nước, là một ngách đi lên, có ba bậc. Lên hết ba bậc là một cửa đi. Perenna đẩy cửa. Đó là lối vào phòng riêng của cô Lơvatxơ. Hai người đi sang gian tiếp khách. Đông Luy đóng cửa đi, đóng cửa gian tiếp khách.


Anh nói với cô, giọng quả quyết: «Nào ! Bây giờ la nói chuyện với nhau !».






Truyện liên quan